Danh mục

Điều trị bằng thuốc nhắm trúng đích cho ung thư phổi không phải tế bào nhỏ

Điều trị bằng thuốc nhắm trúng đích cho ung thư phổi không phải tế bào nhỏ

Khi các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu thêm về những thay đổi trong các tế bào ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) giúp chúng phát triển, họ đã phát triển các loại thuốc để nhắm mục tiêu cụ thể vào những thay đổi này. Thuốc nhắm trúng đích hoạt động khác với thuốc hóa trị liệu tiêu chuẩn (hóa trị). Đôi khi chúng hoạt động khi thuốc hóa trị không thể, và chúng thường có tác dụng phụ khác nhau. Tại thời điểm này, thuốc nhắm trúng đích thường được dùng cho ung thư phổi tiến triển, cùng với hóa trị hoặc dùng riêng biệt.

Thuốc nhắm trúng đích tăng trưởng mạch máu khối u (tạo mạch)

Để các khối u phát triển, chúng cần hình thành các mạch máu mới để giữ cho chúng được nuôi dưỡng. Quá trình này được gọi là sự hình thành mạch. Một số loại thuốc nhắm trúng đích, được gọi là thuốc ức chế hình thành mạch máu (angiogenesis inhibitor), ngăn chặn sự phát triển mạch máu mới này:

- Bevacizumab (Avastin) được sử dụng để điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) tiên tiến. Loại thuốc này là một kháng thể đơn dòng (phiên bản nhân tạo của protein hệ thống miễn dịch đặc hiệu) nhắm vào yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF), một loại protein giúp các mạch máu mới hình thành. Thuốc này thường được sử dụng với hóa trị trong một thời gian. Sau đó, nếu thuốc phản ứng tốt với ung thư, hóa trị có thể được dừng lại và Bevacizumab được cung cấp cho đến khi ung thư bắt đầu phát triển trở lại.

- Ramucirumab (Cyramza) cũng có thể được sử dụng để điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) tiên tiến. Thuốc này là một kháng thể đơn dòng nhắm vào thụ thể VEGF (protein). Chúng giúp ngăn chặn sự hình thành của các mạch máu mới. Thuốc này thường được kết hợp với hóa trị và được khuyến nghị sử dụng sau khi điều trị khác ngừng hoạt động.

Tác dụng phụ của thuốc ức chế sự hình thành mạch máu 

Tác dụng phụ thường gặp của các loại thuốc này bao gồm:

  • Huyết áp cao.
  • Mệt mỏi (uể oải).
  • Chảy máu.
  • Số lượng bạch cầu thấp (tăng nguy cơ nhiễm trùng).
  • Nhức đầu.
  • Loét miệng.
  • Ăn mất ngon.
  • Bệnh tiêu chảy.

Các tác dụng phụ hiếm gặp nhưng có thể nghiêm trọng bao gồm cục máu đông, chảy máu nghiêm trọng, lỗ thủng (được gọi là thủng) trong ruột, các vấn đề về tim và vết thương lâu lành. Nếu một lỗ hình thành trong ruột nó có thể dẫn đến nhiễm trùng nặng và phải phẫu thuật để khắc phục.

Do nguy cơ chảy máu, những loại thuốc này thường được sử dụng ở những người ho ra máu hoặc đang dùng thuốc làm loãng máu. Đối với bệnh nhân mắc loại tế bào vảy NSCLC, họ có nguy cơ cao bị chảy máu nghiêm trọng ở phổi, đó là lý do tại sao các hướng dẫn hiện tại không khuyến nghị sử dụng Bevacizumab ở những người mắc loại ung thư phổi này.

Thuốc nhắm trúng đích các tế bào có thay đổi gen EGFR

Thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGFR) là một protein trên bề mặt tế bào. Chúng thường giúp các tế bào phát triển và phân chia. Một số tế bào ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) có quá nhiều EGFR, khiến chúng phát triển nhanh hơn. Các loại thuốc được gọi là chất ức chế EGFR, có thể chặn tín hiệu từ EGFR thông báo cho các tế bào phát triển. Một số loại thuốc này có thể được sử dụng để điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) tiến triển

Các chất ức chế EGFR được sử dụng trong ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) với đột biến gen EGFR

  • Erlotinib (Tarceva).
  • Afatinib (Gilotrif).
  • Gefitinib (Iressa).
  • Osimertinib (Tagrisso).
  • Dacomitinib (Vizimpro).

Những loại thuốc này có thể được sử dụng riêng biệt (không có hóa trị) như là phương pháp điều trị đầu tiên cho các ca bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) tiến triển có đột biến nhất định trong gen EGFR. Những đột biến gen này phổ biến hơn ở phụ nữ, người châu Á và những người hút thuốc lá thụ động (hoặc người hút thuốc lá nhẹ). Erlotinib cũng có thể được sử dụng cho ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) tiến triển mà không có các đột biến này nếu hóa trị không hoạt động. Tất cả các loại thuốc này được dùng dưới dạng thuốc viên.

Các chất ức chế EGFR nhắm vào các tế bào có đột biến T790M

Chất ức chế EGFR thường có thể thu nhỏ khối u trong vài tháng hoặc lâu hơn. Nhưng đối với hầu hết mọi người những loại thuốc này ngừng hoạt động là do các tế bào ung thư phát triển một đột biến khác trong gen EGFR. Chúng thường được gọi là T790M. Osimertinib (Tagrisso) là một chất ức chế EGFR hoạt động chống lại các tế bào có đột biến T790M.

Hiện nay, các bác sĩ thường lấy một sinh thiết khác khi các chất ức chế EGFR đã ngừng hoạt động, để xem liệu khối u của bệnh nhân có phát triển đột biến T790M hay không.

Thuốc ức chế EGFR được sử dụng cho NSCLC tế bào vảy

Necitumumab (Portrazza) là một kháng thể đơn dòng (phiên bản nhân tạo của protein hệ thống miễn dịch) nhắm vào EGFR. Chúng có thể được sử dụng với hóa trị liệu, là phương pháp điều trị đầu tiên ở những người bị NSCLC tế bào vảy tiến triển. Thuốc này được tiêm dưới dạng tĩnh mạch (IV).

Tác dụng phụ của thuốc ức chế EGFR

Tác dụng phụ thường gặp của tất cả các thuốc ức chế EGFR bao gồm:

  • Các vấn đề về da.
  • Bệnh tiêu chảy.
  • Loét miệng.
  • Ăn mất ngon.

Các vấn đề về da có thể bao gồm phát ban giống như mụn trứng cá trên mặt và ngực, trong một số trường hợp có thể dẫn đến nhiễm trùng da.

Những loại thuốc này cũng có thể gây ra tác dụng phụ nghiêm trọng hơn, nhưng ít phổ biến hơn. Ví dụ: Necitumumab có thể làm giảm nồng độ của một số khoáng chất trong máu, gây ảnh hưởng đến nhịp tim và trong một số trường hợp có thể đe dọa đến tính mạng.

Thuốc nhắm trúng đích các tế bào có thay đổi gen ALK

Khoảng 5% trường hợp bị ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) có sự sắp xếp lại trong một gen có tên là ALK. Sự thay đổi này thường thấy ở những người không hút thuốc (hoặc những người hút thuốc nhẹ), những người trẻ hơn và có phân nhóm ung thư tuyến Adenocarcinoma của NSCLC. Sự sắp xếp lại gen ALK tạo ra protein ALK bất thường khiến các tế bào phát triển và lan rộng. Các loại thuốc nhắm đến protein ALK bất thường bao gồm:

  • Crizotinib (Xalkori).
  • Ceritinib (Zykadia).
  • Alectinib (Alecensa).
  • Brigatinib (Alunbrig).
  • Lorlatinib (Lorbrena).

Những loại thuốc này thường có thể thu nhỏ khối u ở những người bị ung thư phổi tiến triển có sự thay đổi gen ALK. Mặc dù các loại thuốc này có thể giúp ích sau khi hóa trị ngừng hoạt động, vì thế chúng thường được sử dụng thay vì hóa trị ở những người bị ung thư có sự sắp xếp lại gen ALK.

Những loại thuốc này được dùng dưới dạng thuốc viên.

Tác dụng phụ của thuốc ức chế ALK

Tác dụng phụ thường gặp của thuốc ức chế ALK bao gồm:

  • Buồn nôn và ói mửa.
  • Bệnh tiêu chảy.
  • Táo bón.
  • Mệt mỏi.
  • Thay đổi thị lực.

Các tác dụng phụ khác cũng có thể xảy ra với một số loại thuốc này. Một số tác dụng phụ có thể nghiêm trọng, chẳng hạn như viêm (sưng) trong phổi hoặc các bộ phận khác của cơ thể, tổn thương gan, tổn thương thần kinh (bệnh thần kinh ngoại biên) và các vấn đề về nhịp tim.

Thuốc nhắm trúng đích các tế bào có thay đổi gen ROS1

Khoảng 1% đến 2% trường hợp ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) có sự sắp xếp lại trong gen có tên là ROS1. Sự thay đổi này thường thấy nhất ở những người có phân nhóm ung thư tuyến Adenocarcinoma của NSCLC và có khối u cũng âm tính với đột biến ALK, KRAS và EGFR. Sắp xếp lại gen ROS1 tương tự như sắp xếp lại gen ALK và một số loại thuốc có thể hoạt động trên các tế bào có thay đổi gen ALK hoặc ROS1. Các loại thuốc nhắm đến protein ROS1 bất thường bao gồm:

  • Crizotinib (Xalkori).
  • Ceritinib (Zykadia).
  • Lorlatinib (Lorbrena).
  • Entrectinib (Rozlytrek).

Những loại thuốc này thường có thể thu nhỏ khối u ở những người bị ung thư phổi tiến triển có sự thay đổi gen ROS1. Crizotinib hoặc Ceritinib có thể được sử dụng như điều trị đầu tiên, thay vì hóa trị, và Lorlatinib có thể được sử dụng khi Crizotinib hoặc Ceritinib ngừng hoạt động. Entrectinib có thể được sử dụng ở những người bị ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) di căn có thay đổi gen ROS1.

Những loại thuốc này được dùng dưới dạng thuốc viên.

Tác dụng phụ của thuốc nhắm vào các tế bào có gen ROS1 thay đổi

Tác dụng phụ thường gặp của thuốc ức chế ROS1 bao gồm:

  • Chóng mặt.
  • Bệnh tiêu chảy.
  • Táo bón.
  • Mệt mỏi.
  • Thay đổi thị lực.

Các tác dụng phụ khác cũng có thể xảy ra với một số loại thuốc này. Một số có thể nghiêm trọng hơn, chẳng hạn như viêm (sưng) trong phổi hoặc các bộ phận khác của cơ thể, tổn thương gan, tổn thương thần kinh (bệnh thần kinh ngoại biên) và các vấn đề về tim.

Thuốc nhắm trúng đích các tế bào có gen BRAF thay đổi

Trong một số trường hợp ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC), các tế bào có sự thay đổi trong gen BRAF. Chúng tạo ra một protein BRAF thay đổi giúp chúng phát triển. Một số loại thuốc nhắm trúng đích này và các protein liên quan:

  • Dabrafenib (Tafinlar) là một loại thuốc được gọi là chất ức chế BRAF, tấn công trực tiếp protein BRAF.
  • Trametinib (Mekinist) được biết đến như một chất ức chế MEK, vì nó tấn công các protein MEK liên quan.

Những loại thuốc này có thể được sử dụng cùng nhau để điều trị ung thư phổi không tế nhỏ (NSCLC) di căn nếu nó có một loại thay đổi gen BRAF cụ thể.

Những loại thuốc này được dùng dưới dạng thuốc viên hoặc viên nang mỗi ngày.

Tác dụng phụ của thuốc nhắm trúng đích các tế bào có gen BRAF thay đổi

Các tác dụng phụ thường gặp có thể bao gồm da dày, phát ban, ngứa, nhạy cảm với ánh nắng mặt trời, đau đầu, sốt, đau khớp, mệt mỏi, rụng tóc, buồn nôn và tiêu chảy.

Một số tác dụng phụ ít phổ biến hơn nhưng nghiêm trọng có thể bao gồm chảy máu, các vấn đề về nhịp tim, các vấn đề về gan hoặc thận, các vấn đề về phổi, phản ứng dị ứng nghiêm trọng, các vấn đề về da hoặc mắt nghiêm trọng và tăng lượng đường trong máu.

Một số người được điều trị bằng các loại thuốc này bị ung thư da, đặc biệt là ung thư tế bào vảy của da. Vì thế bác sĩ sẽ kiểm tra da của người bệnh thường xuyên trong quá trình điều trị và trong vài tháng sau đó. Người bệnh cũng nên cho thông báo ngay cho bác sĩ nếu nhận thấy bất kỳ sự tăng trưởng mới hoặc các khu vực bất thường nào trên da.

Thuốc nhắm trúng đích các tế bào có gen NTRK thay đổi

Một số lượng rất nhỏ ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) có những thay đổi ở một trong các gen NTRK. Các tế bào với những thay đổi gen này có thể dẫn đến tăng trưởng tế bào và ung thư bất thường. Larotrectinib (Vitrakvi)Entrectinib (Rozlytrek) nhắm mục tiêu và vô hiệu hóa các protein được tạo ra bởi các gen NTRK. Những loại thuốc này có thể được dùng ở những người bị ung thư phổi tiến triển nhưng vẫn đang phát triển mặc dù các phương pháp điều trị khác và khối u có sự thay đổi gen NTRK.

Những loại thuốc này được dùng dưới dạng thuốc viên, uống một hoặc hai lần mỗi ngày.

Tác dụng phụ của thuốc trúng đích vào các tế bào có gen NTRK thay đổi

Các tác dụng phụ thường gặp bao gồm chóng mặt, mệt mỏi, buồn nôn, nôn, táo bón, tăng cân và tiêu chảy.

Các tác dụng phụ ít phổ biến hơn nhưng nghiêm trọng có thể bao gồm các xét nghiệm bất thường về chức năng gan, các vấn đề về tim và nhầm lẫn.

Xin mời nói. Bạn muốn tìm gì ...