Bệnh loãng xương và chế độ dinh dưỡng cho người bệnh loãng xương
1. Tình hình loãng xương hiện nay
Loãng xương (LX) là bệnh lý của toàn hệ thống xương làm suy yếu sức mạnh của toàn khung xương, ảnh hưởng lớn tới chất lượng cuộc sống của số đông người có tuổi, đặc biệt là phụ nữ. Mức độ nặng nề của biến chứng gãy xương trong bệnh. LX được xếp tương đương với tai biến mạch vành (nhồi máu cơ tim) trong bệnh thiếu máu cơ tim cục bộ và tai biến mạch máu não (đột quỵ) trong bệnh cao huyết áp. Hiện nay, LX đang được coi là một “bệnh dịch âm thầm” (Osteoporosis: the Silent Epidemic Disease) lan rộng khắp thế giới, ngày càng có xu hướng gia tăng và trở thành gánh nặng cho y tế cộng đồng.
Theo số liệu của Tổ chức chống loãng xương Quốc tế (IOF), Loãng xương là nguyên nhân đứng hàng thứ hai gây nên bệnh tật, chỉ sau bệnh tim mạch. Trên Thế giới thì cứ 3 phụ nữ có một người bị loãng xương. Ở nam giới tỷ lệ này là 1/5. Riêng tại Việt Nam, theo số liệu khảo sát bước đầu của viện Dinh Dưỡng, bệnh loãng xương ảnh hưởng tới 1/3 phụ nữ và 1/8 đàn ông trên 50 tuổi. Ước tính có khoảng 2,5 triệu người bị loãng xương và có trên 150.000 trường hợp bị gãy xương do loãng xương. Trên toàn thế giới có 6,3 triệu trường hợp gãy cổ Xương đùi đo loãng xương và châu Á chiếm 51%, Trong khi đó khẩu phần ăn của người Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu hạn chế loãng xương. Lượng calci đưa vào cơ thể trung bình là 524mg/ngày, thấp hơn nhiêu so với nhu cầu trung bình 800 - 1000mg/người/ngày đối với người lớn.
Loãng xương ước tính ảnh hưởng đến 200 triệu phụ nữ trên toàn thế giới, hơn 75 triệu người ở châu u, Mỹ và Nhật Bản. Tỷ lệ loãng xương ở đàn ông châu Á trên 50 tuổi là 12,6%. Ở Việt Nam, con số loãng xương ước tính là 2,8 triệu người, chiếm 30% phụ nữ trên 50 tuổi.
“Dự báo tới năm 2050, toàn thế giới sẽ có tới 6,3 triệu trường hợp gãy cổ xương đùi do LX, và 51% số này sẽ ở các nước châu Á” nơi mà khẩu phần ăn hàng ngày còn rất thiếu calci, nơi mà việc chẩn đoán sớm và điều trị tích cực bệnh LX còn gặp rất nhiều khó khăn. Cụ thể:
Trên toàn thế giới (Theo nhận định chung của IOF)
- Trên LX là vấn đề y tế rất thường gặp:
+ Ảnh hưởng đến 1/3 phụ nữ và 1/8 đàn ông trên 50.
+ Ở phụ nữ: nguy cơ bị gãy xương do LX, nguy cơ bị ung thư vú + ung thư buồng trứng.
+ Với tuổi thọ ngày càng tăng hiện nay, ngày càng nhiều người bị bệnh, đặc biệt là phụ nữ.
- Bệnh LX diễn biến từ từ và thâm lặng. Người bị LX thường không biết mình bị bệnh, cho đến khi Dị biến chứng gãy xương. Gãy xương do LX thường gặp nhất ở cổ tay, đốt sống và cổ xương đùi. Gãy xương do LX có thể xảy ngay cả trong những hoạt động hàng ngày, làm cho người bệnh đau đớn, mất khả năng vận động, mất khả năng sinh hoạt tối thiểu. Đặc biệt ở người lớn tuổi, gãy đốt sống và gãy cổ xương đùi không chỉ gây tàn phê mà còn tăng nguy cơ tử vong cho người bệnh
- Bệnh LX: dễ chẩn đoán, khi đã bị LX, điêu trị có thể làm giảm 50% nguy cơ gãy xương. Nhưng, điều quan trọng là phải chẩn đoán sớm và điều trị sớm để ngăn ngừa không cho gãy xương do LX xảy ra.
- Điều trị LX rất tốn kém (chi phí trực tiếp và gián tiếp).
- Bệnh LX có thể phòng ngừa.
+ Khi khối lượng xương đỉnh (Peak Bone Mass), khối lượng xương cao nhất lúc trưởng thành tăng 10%, sẽ giảm được 50% nguy cơ gãy xương do LX trong suốt cuộc đời.
+ Khối lượng xương đỉnh sẽ phụ thuộc vào:
* Yếu tố cá thể: vấn đề di truyền, chuyên hóa, nội tiết của từng người.
* Yếu tố dinh dưỡng: đặc biệt lượng calcium và protein trong chế độ ăn hàng ngày để cung cấp nguyên vật liệu cho quá trình tạo xương.
* Yếu tố vận động thể lực để làm tăng quá trình tạo xương.
- Năm 1990, toàn thế giới có khoảng 1,7 triệu trường hợp gãy cổ xương đùi do LX, thì 31% số này thuộc các nước châu Á. Với tốc độ lan tràn được ví như dịch hiện nay, dự tính năm 2050, toàn thế giới sẽ có tới 6,3 triệu trường hợp gãy cổ xương đùi do LX, và 51% số này thuộc các nước châu Á.
- Năm 1999 (tại Mỹ): 25 triệu người bị LX, phần lớn là phụ nữ. 1,5 triệu người bị gãy xương: 750.000 gãy lún đốt sống. 250.000 gãy cổ xương đùi. 250.000 gãy xương xương cẳng tay. 250.000 gãy các vị trí khác
- Xuất độ LX:
Trong lứa tuổi 50-70:19,6% phụ nữ và 3,1% nam giới (nữ = 3 lần nam).
Trên 70 tuổi: 58,8% phụ nữ và 19,6% nam giới (nữ = 3 lần nam).
2. Nguyên nhân gây loãng xương
Loãng xương còn gọi là thưa xương, xốp xương là tình trạng giảm khối lượng xương, thường đi kèm với gãy xương, đặc biệt là lún các đốt sống. Tuổi cao cùng với việc giảm nội tiết tố, ăn uống thiếu chất là nguyên nhân dẫn đến loãng xương.
Bộ xương của chúng ta cứng cáp được là nhờ có những chất khoáng, nhất là calci và phospho. Có 3 yếu tổ ảnh hưởng đến xương là: chế độ ăn đầy đủ calci và các chất khoáng khác; đảm bảo đủ vitamin D đề giúp hấp thụ calci; nồng độ các chất nội tiết tố có vai trò đối với sự phát triển của xương. Nếu thiếu các chất có trong cơ thể dễ dẫn đến loãng xương.
3. Các yếu tố nguy cơ của loãng xương
Bệnh LX sẽ trở nên nặng nề hơn, sớm hơn, nhiều biến chứng hơn... nếu người bệnh có thêm một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ dưới đây:
+ Kém phát triển thể chất từ khi còn nhỏ, đặc biệt là còi xương, suy dinh dưỡng, chế độ ăn thiếu protid, thiếu calci hoặc tỷ lệ calci/phospho trong chế độ ăn không hợp lý, thiếu vitamin D hoặc cơ thể không hấp thu được vitamin D... vì vậy khối lượng khoáng chất đỉnh của xương ở tuổi trưởng thành thấp, đây được coi là yếu tô nguy cơ quan trọng nhất của bệnh LX.
+ Ít hoạt động thể lực (hoạt động thể lực thường xuyên sẽ giúp cho cơ thể đạt được khối lượng xương cao nhất lúc trưởng thành), ít hoạt động ngoài trời (các tiền vitamin D nên ảnh hưởng tới việc hấp thu calci).
+ Sinh đẻ nhiều lần, nuôi con bằng sữa mẹ mà không ăn uống đủ chất đặc biệt là protid và calci để bù đắp lại.
+ Bị các bệnh mạn tính đường tiêu hoá (dạ dày, ruột...) làm hạn chế hấp thu calci, vitamin D, protid...
+ Có thói quen sử dụng nhiều rượu, bia, cà phê, thuốc lá... làm tăng thải calci qua đường thận và giảm hấp thu calci ở đường tiêu hóa.
+ Thiểu năng các tuyến sinh dục nam và nữ (suy buồng trứng sớm, mãn kinh sớm, cắt buồng trứng, thiểu năng tình hoàn... ).
+ Bất động quá lâu ngày do bệnh tật (chấn thương cột sống, phải bất động), do nghề nghiệp (những người du hành vũ trụ khi tàu vũ trụ đi ra ngoài không gian) vì khi bất động lâu ngày các tế bào huỷ xương tăng hoạt tính.
+ Bị các bệnh nội tiết: cường tuyến giáp, cường tuyến cận giáp, cường tuyên vỏ cường thận, tiểu đường...
+ Bị bệnh suy thận mãn hoặc phải đợi thận nhân tạo lâu ngày gây rối loạn chuyển hóa và mật calci qua đường tiết niệu.
+ Mắc các bệnh xương khớp mạn tính khác đặc biệt là Viêm khớp dạng thấp và thoái hoá khớp.
+ Phải sử dụng dài hạn một số thuốc: chống động kinh (Dihydan), thuốc chữa bệnh tiểu đường (Insulin), thuốc chống đông (Heparin) và đặc biệt là các thuốc kháng viêm nhóm cortiosteroid (cortiosteroid một mặt ức chế trực tiếp quá trình tạo xương, mặt khác làm giảm hấp thu calci ở ruột, tăng bài xuất calci ở thận và làm tăng quá trình huỷ xương).
4. Triệu chứng loãng xương
- Đau mỏi mơ hồ ở cột sống, đau dọc các xương đài (đặc biệt xương cẳng chân), đau mỏi cơ bắp, ớn lạnh, hay bị chuột rút (vọp bẻ) các cơ...
- Đau thực sự cột sống, đau lan theo khoang liên sườn, đau khi ngồi lâu, khi thay đổi tư thế. Có thể đau mạn tính hoặc cấp tính sau chấn thương (gãy xương cổ tay, gãy lún đốt sống, gãy cổ xương đùi...).
- Đầy bụng chậm tiêu, nặng ngực khó thở.
- Gù lưng, giảm chiều cao.
Tuy nhiên, LX là bệnh diễn biến âm thầm, người ta thường ví bệnh giống như một tên ăn cắp thầm lặng, hằng ngày cứ loay dần calci trong ngân hàng dự trữ xương của cơ thể con người. Khi có dấu hiệu lâm sàng, thường là lúc đã có biến chứng, cơ thể đã bị mất tới 30% khối lượng xương.
a. Biên chứng của loãng xương:
- Đau kéo dài do chèn ép thần kinh.
- Gù vẹo Cột sống, biến dạng lồng ngực...
- Gãy xương cổ tay, gãy lún đốt sống, gãy cổ xương đùi.
- Giảm khả năng vận động, ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng sống của người có tuổi.
b. Các xét nghiệm cần làm đễ xác định bệnh loãng xương
- Chụp X-quang xương (cột sống và các xương).
- Đo khối lượng xương BMD bằng nhiêu phương pháp:
+ Đo hấp phụ năng lượng tia X kép (Dual Energy Xray Absorptiometry - DEXA, DXA),
+ Đo hấp phụ năng lượng quang phổ đơn (Single Energy Photon Absorptiometry - SPA),
+ Đo hấp phụ năng lượng quang phổ kép (Dual Energy Photon Absorptiometry - DPA),
+ Chụp cắt lớp điện toán định lượng (Quantitative Computed Tomography - QCT);
+ Siêu âm (Ultrasound)...
- Xét nghiệm:
Máu: Osteocalcin, Bone Specific Alkaline Phosphatase (BSAP) đề đánh giá quá trình tạo xương:
Nước tiểu: Deoxy Lysyl Pyridinoline (DPD), N telopeptides liên kết chéo (NTX)... đề đánh giá quá trình huỷ Xương.
- Sinh thiết xương để thấy được những tổn thương vì câu trúc của xương.
5. Điều trị loãng xương
5.1. Các thuốc chống hủy xương
Là nhóm thuốc quan trọng nhất trong điều trị LX vì làm giảm hoạt tính của tế bào huỷ xương (Osteoclast) và làm giảm chu chuyển xương.
a. Nhóm hormon và các thuốc giống hormon
Là nhóm thuốc có tác dụng ức chế hoạt động của các tế bào hủy xương. Nhóm hormon sinh dục nữ (Oestrogen và các giống hormon) dùng để phòng ngừa và điều trị LX cho phụ nữ sau mãn kinh (menopause).
- Oestrogen (biệt dược Premarin).
- Oestrogen và Progesterone (biệt dược Prempak C, Prempro... ).
- Thuốc giống hormon: Tibolol (biệt dược Livial).
- Thuốc điều hòa chọn lọc thụ thể Oestrogen (SERM): Raloxifene (biệt dược Evista).
b. Nhóm hormon sinh dục nam (Androgen):
Dùng để phòng ngừa và điều trị LX cho nam giới sau tắt dục (andropause): testosterone (Biệt dược Andriol).
c. Nhóm BisPhosphonates:
Bisphosphonates là nhóm thuốc mới được sử dụng từ đầu thập niên 90, có tác dụng làm tăng khối lượng và độ cứng của xương, đặc biệt ở cột sống, giảm đáng kể được nguy cơ gãy xương do LX.
Có rất nhiều loại như: Pyrophosphate, Clodronate, Tiludronate, Pamidronate, Etidronate, Alendronate, Risedronate... Hiện nay, 3 loại Bisphosphonates đang được sử dụng rộng rãi trên giới là Etidronate (Difosfen), Alendronate (Fosamax) và Risedronate (Actonel). Thuốc còn có thể sử dụng để phòng ngừa cho những đối tượng có nguy cơ cao bị LX (phụ nữ sau mãn kinh, bệnh nhân phải sử dụng thuốc kháng viêm corticosteroid kéo dài... ).
d. Calcitonin
Calcitonin là một chuỗi các acid amin từ cá hồi, có tác dụng chống hủy xương, giảm đau do hủy xương và làm giảm chu chuyển xương.
Cơ chế tác dụng: gắn kết với các thụ thể đặc hiệu trong hủy cốt bào. Làm giảm số lượng và hoạt động của hủy cốt bào. Hiệu quả của thuốc: giảm tỷ lệ gãy xương và giảm đau do hút xương.
5.2. Các thuốc tăng tạo xương
- Parathyroid Hormon: rPTH 2 ug TDD/ngày là thuốc duy nhất được công nhận là tăng tạo xương thực sự (11/2002).
- Calcium và vitamin D: để cung cấp “nguyên liệu” cho việc tạo xương mới, kích thích hoạt động của tế bào sinh xương (Osteoblast).
+ Vitamin D hoặc chất chuyển hoá của vitamin D (Calcitriol — Rocaltrol) giúp cho việc sử dụng calcium hiệu quả hơn.
+ Calcium nhằm cung cấp những nguyên vật liệu để bố xung cho xương khi mà chế độ ăn không đáp ứng đủ hoặc khi cơ thể không hấp thu đầy đủ.
- Thuốc tăng đồng hoá (Durabolin, Deca-durabolin) có tác dụng tăng cường hoạt tính của tế bào sinh xương, tăng cường chuyển hóa protein.
Trên thực tế các thuốc chống hủy xương cũng có tác dụng tăng tạo xương và các thuốc tăng tạo xương cũng có tác dụng chống hủy xương.
5.3 Sử dụng các thuốc điều trị loãng xương
a. Kết hợp thuốc chống hủy xương và thuốc tăng tạo xương :
- Bisphosphonate + Calci và vitamin D
- Calcitonin + Calci và vitamin D
- Hormon thay thê + Calci và vitamin D
b. Kết hợp các thuốc chống hủy xương và thuốc tăng tạo XƯƠNG:
- Isphosphonate + Hormon thay thế + Calcium & Vitamin D.
- Calcitonin + Hormon thay thế + Calcium & Vitamin D.
- Bisphosphonate + Calcitonin + Hormone thay thế + Calci & Vitamin D.
Riêng rPTH, mới được FDA công nhận là thuốc kích thích sự tạo xương (11/2002) vì vậy kinh nghiệm lâm sàng về loại thuốc này chưa nhiều.
Các bác sĩ chuyên khoa sẽ cho các chỉ định điều trị, tùy thuộc vào từng cá thể, mức độ LX, tình trạng sức khỏe, thói quen sinh hoạt, khả năng kinh tế... của mỗi người bệnh.
5.4. Làm thế nào để phát hiện sớm bệnh
+ Phát hiện các yếu tố nguy cơ gây LX thứ phát (đã nêu trên).
+ Đi khám bệnh sớm, ngay khi có các dấu hiệu đau mỏi mơ hồ ở cột sống, ở hệ thống xương khớp, dọc các xương dài (đặc biệt xương cẳng chân), đau mỏi cơ bắp, vọp bẻ...
Các bác sĩ chuyên khoa sẽ cho kiểm tra:
- Chụp X-quang xương hoặc cột sống.
- Đo khối lượng xương (Bone Mass Density - BMD).
- Làm các xét nghiệm kiểm tra.
- Khám và phát hiện các yếu tố nguy cơ.
+ Khám bệnh và theo dõi định kỳ (tuỳ mức độ bệnh).
+ Luôn có ý thức phòng bệnh (suốt cuộc đời).
- Chế độ sinh hoạt, tập luyện tăng cường hoạt động ngoài trời, tập vận động thường xuyên và phù hợp với sức khoẻ, duy trì lỗi sống năng động, tránh các thói quen xấu: uống nhiều bia, rượu, cafe, thuốc lá...
- Chế độ ăn uống luôn luôn bảo đảm một chế độ ăn uống đầy đủ protein và khoáng chất, đặc biệt là calci. Vì vậy sữa và các chế phẩm từ sữa (Bơ, Phomai, Yaourt...) là thức ăn lý tưởng cho một khung xương khỏe mạnh.
Chế độ này cần được duy trì suốt cuộc đời mỗi người.
Kiểm soát tốt các bệnh lý ảnh hưởng và các yếu tố nguy cơ của bệnh.
5.5. Phòng bệnh loãng xương
Bệnh loãng xương (LX) và các. biến chứng nặng như sảy cổ xương đùi, gãy xương cổ tay, gây xẹp đốt sống... là một gánh nặng đối với y tế cộng đồng vì chi phí điều trị cho bệnh LX rất lớn, vượt quá khả năng của phần lớn bệnh nhân (phần lớn các thuộc chống hủy xương đều đắt tiên).
Tuy nhiên, phòng bệnh sẽ kinh tế hơn chữa bệnh rất nhiều, đây là giải pháp tốt nhất cho mọi quốc gia, đặc biệt các nước nghèo như nước ta.
Hãy phòng ngừa bệnh LX bằng việc “đầu tư cho xương của bạn” và “đầu tư cho xương của con bạn” càng sớm càng tốt. Hãy bổ sung ngay sữa và các sản phẩm từ sữa vào khẩu phần ăn hàng ngày của mọi người trong gia đình bạn nếu có thể.
Nếu khối lượng xương đỉnh lúc trưởng thành tăng 10%, sẽ giảm được 50% nguy cơ gãy xương do LX trong suốt cuộc đời.
Đây cũng là đầu tư cho sức khỏe, việc làm này phải là trở thành ý thức tự giác của các thế hệ, của toàn xã hội, để cải tạo nòi giống, để cải thiện cách ăn uống, sinh hoạt chưa hợp lý của phần lớn các nước đang phát triển ở châu Á như nước ta.