Nguyên nhân và bệnh sinh Béo phì - Tăng cân

Nguyên nhân và bệnh sinh Béo phì - Tăng cân

1. Nguyên nhân bệnh béo phì  - tăng cân

a. Béo thường có tính chất gia đình:

- Do ăn nhiều và thức ăn có nhiều năng lượng, đặc biệt ở các nước phát triển sử dụng các thức ăn nhanh có chứa > 35% chất béo.
- Yếu tố di truyền: 69% người béo phì có bố, mẹ béo phì. 183% bô hoặc mẹ béo phì. 73⁄2 người bệnh béo phì trong khi bố mẹ bình thường.

- Ít vận động đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình xuất hiện béo phì, sự phát triển khoa học, sự tiến bộ trong kỹ thuật thông tin và giao thông làm cho con người càng Ít vận động. Trẻ em tăng cân nhanh một phân có vai trò của phương tiện nghe nhìn: tivi, video, game và ngay cả trường học cũng Ít quan tâm tới môn học hoạt động thể lực.

b. Béo phì do thần kinh nội tiết:

- Vùng dưới đồi: gây béo phì khi bị tổn thương, bệnh ít gặp:

- Đa nang buồng trứng: đa nang buồng trứng gây rối loạn kinh nguyệt, rậm lông tăng huyết áp, tăng androgen, kháng insulin và béo phì gặp 50% bệnh nhân

- Cường vỏ thượng thận (H.C Cushing);

- Suy giáp: suy giáp làm rối loạn chuyên hoá nước điện giải, làm giảm Natri và giữ nước gây tăng cân, điều này hoàn toàn khác với tăng cân do béo,

- U tụy nội tiết (insulinoma): do tăng insulin gây hạ đường huyết và bệnh nhân phải ăn nhiều dẫn tới tăng cân;

- Hội chứng phì sinh dục (Babinski - Froehlich).
 

c. Béo phì do gen:

- Đột biến gen sản xuất Leptin hoặc đột biến Receptor của Leptin.

- Đột biến gen khác: 
+ Gen tổng hợp POMC.
+ Gen sản xuất Prohormone convertase - 1 (PC - 1)
+ Me - 4 Receptor.
+ PPAR - 2 (Peroxisome Proliferator Activator - Receptor 2). 

d. Bệnh béo phì hiếm gặp:

- Hội chứng Laurence - Moon, Biedl - Bardet.

- Hội chứng Prader - WIllI. 

2. Sinh bệnh học của béo phì

Sự tiêu thụ năng lượng của cơ thể được chia làm nhiều thành phần khác nhau, chuyển hoá cơ sở (CHCS) là năng lượng được tiêu thụ ở trạng thái không hoạt động và là tiêu thụ năng lượng do quá trình hoạt động sinh lý để duy trì nhiệt độ cơ thể. Tiêu thụ năng lượng trạng thái cơ sở (CHCS) chiếm xấp xỉ 60 - 70 % tổng số năng lượng tiêu thụ trong cả ngày. Một số yếu tố làm tăng quá trình sinh nhiệt như: tiêu hoá thức ăn, thay đổi nhiệt độ môi trường xung quanh cơ thể, một số thuốc, sự thay đổi nồng độ hormon và các stress tâm lý. Sự sinh nhiệt này chiếm 20-30% tông năng lượng tiêu thụ trong ngày.

Cơ thể sống và tồn tại trong môi trường luôn biến đổi và rất năng động, vì vậy năng lượng tích lũy và tiêu thụ phải được cân bằng theo thời gian cũng như với trọng lượng cơ thể. Nếu năng lượng đưa vào cao hơn năng lượng tiêu thụ dẫn tới hình thành cân bằng dương tính và sẽ xuất hiện sự tích luỹ ở dạng mỡ tăng (mỡ trắng) và tăng cân. Theo thời gian thì sự tăng cân diễn ra từ từ bởi có sự bù trừ để tạo cân bằng giả giữa năng lượng tiêu thụ và năng lượng tích lũy.

Ở người béo phì có sự cân bằng dương tính và sự tích lũy năng lượng tăng do năng lượng nạp vào quá nhiều trong khi đó năng lượng tiêu thụ giảm do nhiều yếu tố kết hợp: ăn nhiều, ít vận động... Cơ chế này nói chung là phù hợp với trẻ em và thiếu niên nhưng khó giải thích đầy đủ ở người lớn bởi ảnh hưởng của nhiều yếu tố phối hợp (gen, môi trường, giảm hormon sinh dục do mãn kinh...). Béo phì xảy ra khi cung cấp năng lượng vượt trội so với tiêu thụ năng lượng và tiến triển thành nhiều giai đoạn: 

a. Cân bằng năng lượng dương tính: (dư thừa)

- Tăng cung cấp thức ăn:

+  Ăn nhiều quá mức cần thiết hàng ngày:

+ Thức ăn nhiều mỡ (mỡ động vật);

+ Lipid: ít sinh nhiệt và ít gây ngán trong khi ăn. Cho nhiều năng lượng (9 kal/g). Lipid luôn có xu hướng tích lũy, càng tích lũy nhiều khi kèm theo uống bia, rượu;

+ Ăn ít thức ăn sinh nhiệt nhanh (Protid);

+ Có thể do vùng hạ đồi (trung tâm chỉ huy cảm giác no/đói) giảm tiết serotonin làm mất cảm giác no/đói.

- Giảm tiêu tốn năng lượng:

+ Ít hoạt động thể lực dẫn tới giảm khối cơ và do đó giảm tiêu tốn năng lượng.

+ Tạo cân bằng mới (cân bằng dương tính).

+ Tăng cân dẫn tới tăng tuyệt đối khối tế bào hoạt động, nêu chế độ ăn ổn định phải tăng vận động để duy trì cân nặng .

b. Chống quá cân:

Giảm chế độ ăn sẽ dẫn tới giảm sinh nhiệt sau ăn => giảm khối lượng cơ thể => giảm CHCS và tăng chuyển hóa do vận động thể lực, hai cơ chế này cạnh tranh nhau để hạn chế sự giảm cân quá mức.

c. Điều hoà chế độ ăn sinh lý:

- Vai trò thần kinh nội tiết “Nút Leptine - Neuropeptide Y- NPY ”. NPY là một Neuropeptide của vùng hạ đồi, đây là chất kích thích ăn mạnh nhất và điều hoà bởi nồng độ leptine có tác dụng ức chế bài tiết NPY. Hormone Leptine do mô mỡ tiết ra có vai trò thông tin cho vùng hạ đồi về khối lượng mỡ tích lũy trong cơ thể.

Béo phì gia đình người ta thấy có sự đột biến gen Ob sản xuất Leptin và thụ thể Leptin.

d. Điều hoà tiêu tốn năng lượng:

- Chủ vận thụ thể Beta-adrenergic gây tăng tiêu thụ năng lượng và giảm đường huyết. Tăng nồng độ Leptin do tăng khối mỡ dự trữ dân tới giảm cảm giác ngon miệng, tăng phần hủy mỡ và tăng sinh nhiệt.
 

Các câu hỏi liên quan

Xin mời nói. Bạn muốn tìm gì ...