Giải độc tế bào và thể dục rung động
Ung thư là trường hợp nhiễm độc nặng ở cấp độ tế bào. Các nước trên thế giới đều có nhiều người mắc bệnh ung thư, nhưng tỷ lệ mắc bệnh có thể khác nhau, tùy theo từng vùng.
Ở Mỹ, hàng năm có tới một triệu trường hợp chẩn đoán bị mắc căn bệnh khủng khiếp này và dựa trên cơ sở đó, các chuyên gia của Hội chống Ung thư Quốc gia đã cảnh báo rằng, trong những năm gần đây, gần 30% người Mỹ đã mắc bệnh ung thư.
1. Chất chống oxy hóa và sự phòng ngừa ung thư
Đây quả là một thống kê đáng sợ, có thật vậy không? Bệnh này do nguyên nhân gì? Câu trả lời cho vấn đề bức xúc này rất rõ ràng: Do môi trường sống. Nguyên nhân này chiếm tới gần 80%, và cứ hai trường hợp thì một là do chất lượng thức ăn mà chúng ta sử dụng. Tất nhiên có cả yếu tố di truyền, khi hệ thống miễn dịch không có khả năng tiêu diệt các tế bào bệnh lý.
Bệnh ung thư đã gây tổn thương cho nhiều người khắp thế giới, cả ở những đất nước giàu có, thức ăn nhiều chất đường và chất béo (Châu Âu và Mỹ) và ở những nơi thiếu thốn thực phẩm và ngay cả những nơi mà dân ở đó sử dụng nhiều cá (vùng Scandinavia, Nhật và châu Á). Thí nghiệm trên các tế bào cây trồng, vật nuôi cho thấy các gốc tự do đã làm phát sinh và phát triển nhiều căn bệnh ung thư. Nếu vậy thì cơ thể chúng ta cũng cần các chất chống oxy hóa, tăng cường hệ thống bảo vệ tế bào mà thiên nhiên đã ban tặng (bảo vệ người, vật nuôi hoặc cây trồng thí nghiệm).
Nhiều người không am hiểu hoặc có thái độ hoài nghi vai trò chống oxy hóa trong việc phòng chống ung thư. Đã có hàng loạt thí nghiệm được tiến hành để phòng ngừa ung thư và công việc đó vẫn tiếp tục với nhiều thí nghiệm khác nhau. Năm 1987, Viện Nghiên cứu Ung thư Quốc gia ở Mỹ đã liệt kê những nghiên cứu về các cơ quan nội tạng của cơ thể và chất chống oxy hóa - ức chế là loại có vai trò quan trọng trong hóa trị liệu cho ung thư:
- Ung thư màng ruột và trực tràng: Dùng vitamin C và E, beta-carotene, selenium, cám lúa mạch.
- Ung thư thực quản dùng chất khoáng, các vitamin, beta- carotene.
- Ung thư phổi: Dùng vitamin E, selenium, beta-carotene, retinol.
- Ung thư da: Dùng beta-carotene, retinol, acid - retinonic 13.
- Ung thư vú (phụ nữ): Dùng selenium.
- Ung thư các bộ phận khác còn lại: Dùng beta-carotene, selenium, vitamin A, aspirin...
Danh sách trên đây có thể còn dài hơn. Những nghiên cứu dịch tễ học đã chỉ ra quan hệ trực tiếp giữa các tần số phát sinh bệnh ung thư và sự thiếu hụt chất chống oxy hóa trong thức ăn. Sự thiếu hụt này được biểu hiện bằng sự thay đổi các thông số sinh học (tức là tỷ lệ hàm lượng vitamin E và A, selenium, v.v... trong máu). Phân tích những dữ kiện dịch tế học cho thấy, một mặt là những vitamin chống oxy hóa E, A, C, mặt khác là beta-carotene và selenium đều có thể làm giảm bớt nguy cơ phát sinh rất nhiều loại bệnh ung thư.
Có thể khẳng định rằng những thức ăn giàu chất chống oxy hóa (vitamin E, A và G, đồng thời cả beta-carotene và selenium) không chỉ được dùng để phòng ngừa ung thư, mà còn rất có lợi trong việc chống lão hóa và kéo dài tuổi thọ.
Điều này cho thấy sự cần thiết phải đưa chất chống oxy hóa vào khẩu phần ăn của mỗi người. Tất nhiên, liều lượng sử dụng có thể thay đổi tùy theo mức thiếu hụt của cơ thể, nhưng trong một số trường hợp, liều lượng ấy phải đạt được mức đáng kể đặc biệt là trong trường hợp sử dụng quá nhiều chất béo không no, hút thuốc, căng thẳng tinh thần, dùng thuốc tránh thai, sự ô nhiễm môi trường, và tuổi cao, sức yếu.
2. Chống lại các gốc tự do, bảo vệ màng tế bào
Cùng với “tuyến phòng vệ” chính, chống oxy hóa của enzyme hoạt động trong dịch tế bào (tương bào), còn có thêm một hệ thống tương tự nằm ở màng tế bào. Thật ra cũng có sự khác nhau rất rõ giữa hai hệ thống đó. Nếu hệ thống phòng vệ enzyme biến các gốc tự do hoặc sản phẩm phụ peroxide thành chất vô hại, thì hệ thống màng “tóm được” các gốc tự do nhờ các chất thích hợp - chủ yếu là các vitamin có thể hòa tan trong chất béo như vitamin E và A.
* Vitamin E
Ta cần biết khả năng chống oxy hóa rất mạnh của vitamin E và thường xuyên bổ sung lượng dự trữ của nó trong cơ thể. Nếu chúng ta ăn quá nhiều dầu thực vật thì các acid béo không no sẽ lắng đọng ở màng tế bào. Kết quả là tế bào không được bảo vệ do các phản ứng oxy hóa mang lại.
Chỉ cần một lượng vừa đủ vitamin E là có thể tránh được hiện tượng oxy hóa tế bào.
* Vitamin A và carotenoid
Vitamin A được phát hiện vào năm 1909, còn cấu trúc hóa học của nó được biết vào năm 1931. Tổng hợp vitamin lần đầu tiên được thực hiện vào năm 1947. Vai trò của vitamin A về cơ bản là bảo vệ màng tế bào khỏi bị oxy hóa.
Cần phải phân biệt chính xác và rõ ràng vitamin A và tiền vitamin A. Vitamin A có trong mỡ động vật (gan cá morue và gan động vật) và có cả trong trứng, dầu oliu, pho mát v.v... Còn tiền vitamin A thì chỉ có ở thực vật giàu sắc tố carotenoid như trong cà rốt, cần tây, rau chân vịt, dưa bở ngọt, mơ, bắp cải, v.v...
Nhu cầu hàng ngày của người lớn vào khoảng 800-1000 microgram vitamin A.
Gan là “một kho” độc đáo có gần 90% vitamin A của cơ thể người. Vitamin A từ gan đi tới những nơi có nhu cầu cần thiết. Theo thống kê dịch tễ học, thì bệnh ung thư tỷ lệ nghịch với hàm lượng tính bằng phần trăm của retinol có trong máu hoặc nói cách khác là tỷ lệ nghịch với chất beta-carotene đi vào trong máu. Các nhà khoa học đã tiến hành thí nghiệm và thấy tốc độ oxy hóa của tế bào thay đổi tùy theo tuổi và nó cho thấy phần trăm hàm lượng của retinol có trong máu giảm xuống đáng kể theo thời gian.
Vì với lượng tương đối lớn beta-carotene cũng không gây độc hại (thời gian sử dụng dài cũng không sao) nên có thể dùng dư ra, tùy thích trong thức ăn.
Khác với tiền vitamin A (tác dụng của nó là kích thích gan tạo ra vitamin A), việc sử dụng quá mức vitamin A có thể trở thành nguyên nhân sinh ra nhiễm độc.
3. Tăng cường khả năng hấp thu chất chống oxy hóa (antioxidant)
Theo giả thiết của các chuyên gia về siêu vi trùng thì siêu vi trùng có khả năng tự phục hồi thông qua việc sử dụng khác trong hệ thống phục chế gen (DNA) trong cơ thể người bệnh. Những tế bào miễn dịch trong cơ thể nhanh chóng tiêu diệt các siêu vi trùng gây bệnh này. Khả năng miễn dịch của cơ thể càng cao thì nguy cơ bị siêu vi trùng xâm nhập càng ít.
Các chuyên gia cho rằng, con người có thể điều chỉnh hệ thống miễn dịch trong cơ thể của mình để đảm bảo cơ thể luôn trong trạng thái “vô cùng khỏe mạnh”. Nếu khả năng miễn dịch cao, thì cho dù có bị nhiễm khuẩn cũng sẽ làm giảm sự xâm hại của nó xuống mức thấp nhất. Bởi vậy, các chuyên gia đã giả định một số phương pháp để làm tăng chức năng miễn dịch trong thời gian ngắn nhất.
a) Tăng khả năng hấp thu antioxidant. Antioxidant có trong thức ăn, giúp tăng cường hệ thống miễn dịch. Bạn có thể uống một số chất có chứa antioxidant, hàng ngày uống vitamin E và D; vitamin E là vitamin tự nhiên được cơ thể nhanh chóng hấp thu.
Mỗi ngày cần uống 1.000mg vitamin C. Cũng có thể ăn hoa quả như cam, quýt để bổ sung vitamin C.
b) Hàng ngày uống trà xanh vào buổi sáng, vì trong trà xanh có chứa một lượng lớn antioxidant.
c) Theo giả định này, không nên vận động quá mạnh vì sẽ hạn chế tác dụng của hệ miễn dịch liên quan đến lây nhiễm tuyến hô hấp trên. Nếu đã có thói quen tập luyện định kỳ thì trong thời gian này cơ thể vận động nhẹ hoặc vừa.
d) Đảm bảo đủ các thức ăn có chứa đường như gạo và các chất bột khác. Bởi vì chất đường là chất chứa tế bào miễn dịch quan trọng nhất.
e) Hàng ngày ngủ đủ tiếng, không nên để bản thân quá căng thẳng hoặc bị áp lực.
4. Thể dục rung động (phương pháp Mikulin):
Không phải là vô cớ mà người ta gọi bài tập thể dục buổi sáng là sự nạp thể lực. Thật vậy, đây là sự nạp cái sảng khoái, cái tươi mát, cái tích cực cho cả một ngày đang tới. Thậm chí những người có thể lực tốt làm công việc lao động trí óc căng thẳng sau vài giờ làm việc đã bắt đầu cảm thấy nặng đầu, mệt óc.
Nếu ta nhảy trên đầu bàn chân cho đế giày rời khỏi sàn chỉ một centimet thôi và “ném” mình cho đến khi đế giày hoặc gót chân chạm vào sàn thì cơ thể sẽ thấy một sự rung động nào đó. Cũng như khi chạy và đi bộ, máu trong các tĩnh mạch nhận được một rung động bổ sung cho chuyển động về phía tim. Động tác này được gọi là “thể dục rung động”. Một rung động như vậy không làm vội vã, không quá một lần trong một giây. Sau ba mươi lần, cần phải nghỉ 5-10 giây. Không nên nâng đế giày lên cao quá 1cm trên sàn.
Mỗi động tác không nên làm quá sáu mươi lần. Thực hiện động tác dứt khoát. Vì thế “thể dục rung động” không hề gây ra một sự nguy hiểm nào cho cột sống cũng như những đĩa đệm của nó.