Điều trị các vấn đề tình dục ở người ung thư
Nhiều bệnh nhân sợ hay lo lắng về kinh nghiệm tình dục lần đầu sau điều trị ung thư. Sợ hãi và lo lắng có thể làm bệnh nhân tránh thân mật, đụng chạm, và hành vi tính dục. Người phối ngẫu cũng sợ hay lo lắng về bất kỳ hành vi ban đầu và gượng ép khi tiếp xúc hay khó chịu về thể chất. Bệnh nhân và người phối ngẫu nên trao đổi về những bận tâm của mình với bác sĩ hay chuyên gia sức khoẻ đủ kinh nghiệm. Trao đổi chân thành về những cảm xúc, mối quan tâm, và những ưu tiên là điều cần thiết.
Nói chung, một bệnh nhân rối loạn chức năng tình dục sau khi bị ung thư sẽ có nhiều cách điều trị. Bệnh nhân cần học để thích nghi với những thay đổi trong chức năng tình dục qua việc đọc sách, tạp chí, nguồn internet hay nghe, xem phim và đĩa CD. Các nhân viên y tế chuyên khoa về rối loạn tình dục có thể cung cấp cho bệnh nhân những nguồn tư liệu cũng như những thông tin hỗ trợ nơi các tổ chức quốc gia. Có thể một số bệnh nhân sẽ cần can thiệp bằng các biện pháp như hormon thay thế, thuốc hay phẫu thuật. Những bệnh nhân nặng hơn có thể cần tư vấn về tình dục riêng hay chung với người phối ngẫu, hoặc theo nhóm.
Để so sánh hiệu quả của các chương trình điều trị khác nhau sẽ cần các các nghiệm pháp và nghiên cứu sâu hơn nhằm kết hợp y khoa và tâm lý để tiếp cận với người bị ung thư.
Các vấn đề về sinh sản
Xạ trị và hoá trị có thể gây vô sinh tạm thời hay vĩnh viễn. Các phản ứng phụ này có liên quan đến lượng các yếu tố gồm giới tính của bệnh nhân, tuổi vào thời điểm điều trị, loại đặc trị và liều của hoá trị hoặc xạ trị, sử dụng đơn hay đa trị liệu, và độ dài thời gian kể từ lúc điều trị.
Hoá trị
Ở bệnh được hoá trị, tuổi là một nhân tố và sự hồi phục bệnh tốt, làm cải thiện hơn nữa khi bệnh nhân ngưng hoá trị. Các thuốc hoá trị được chứng minh là có ảnh hưởng đến sinh sản gồm có: busulfan, melphalan, cyclophosphamide, cisplatin, chlorambucil, mustine, carmustine, lomustine, cytarabine và procarbazine.
Xạ trị
Đối với nam và nữ được xạ trị vùng bụng và chậu, lượng tia xạ chiếu trực tiếp đến tinh hoàn hay buồng trứng là yếu tố quan trọng. Chức năng sinh sản vẫn còn khi sử dụng các kỹ thuật xạ trị hiện đại và sử dụng che bảo vệ tinh hoàn. Phụ nữ có thể được bảo vệ buồng trứng bằng cách dời chúng ra khỏi vùng có tia xạ bằng phẫu thuật.
Lựa chọn về sinh sản
Bệnh nhân có quan tâm về ảnh hưởng của điều trị ung thư đến khả năng sinh con nên trao đổi với bác sĩ trước khi điều trị. Bác sĩ có thể giới thiệu một nhà tư vấn hay chuyên gia có thể trao đổi những chọn lựa hợp lý để giúp người bệnh và người phối ngẫu trong quá trình quyết định.
Folate có thể ngăn ngừa ung thư buồng trứng
Đối với phụ nữ nghiện rượu, nếu ăn nhiều thực phẩm giàu folate có thể giảm 74% nguy cơ phát triển ung thư buồng trứng. Folate là dạng vitamin B hoà tan trong nước, có nhiều trong các loại rau xanh, quả chua và ngũ cốc nguyên hạt.
Các nhà khoa học Thụy Điển đã theo dõi 61.000 phụ nữ trong độ tuổi 38-76 trong vòng 13 năm. Tất cả đều không có dấu hiệu ung thư khi bắt đầu tham gia nghiên cứu. Nhóm đã ghi nhận tỷ lệ mắc ung thư buồng trứng và mức hấp thu folate từ thức ăn của những người này. Kết quả cho thấy, mức hấp thu folate càng cao thì nguy cơ phát triển ung thư buồng trứng càng thấp. Đặc biệt là trong số những người uống trên 20 g rượu mỗi tuần, nhóm hấp thu nhiều folate nhất giảm tới 74% nguy cơ mắc bệnh so với nhóm hấp thu ít nhất. Nghiên cứu đã nhận được sự ủng hộ của nhiều công trình trước đó, rằng thiếu folate có thể dẫn đến ung thư vú hoặc ung thư ruột, đặc biệt là ờ những người nghiện rượu. Hiện nhóm nghiên cứu dạng tìm hiểu tác dụng của folate đối với những nhóm phụ nữ khác và tác dụng thực sự của viên bổ sung folic acid - dạng tổng hợp của folate.