Dấu ấn sinh học đầu tiên đáp ứng với điều trị ung thư tuyến tiền liệt
Hiện nay ung thư tuyến tiền liệt, có thể được điều trị bằng 2 phương pháp: Taxanes hoặc điều trị hormone. Cho đến gần đây, vẫn chưa có bất cứ nghiên cứu nào có thể so sánh giữa 2 loại thuốc này và việc quyết định điều trị chỉ được thực hiện dựa vào sự lựa chọn của bệnh nhân. Tuy nhiên hiện nay, một nghiên cứu do Trung tâm Nghiên cứu Ung thư Quốc gia Tây Ban Nha (CNIO) - các nhà nghiên cứu từ Ý và Vương quốc Anh đã được xuất bản trong Niệu học Châu Âu đã xác định được một dấu ấn sinh học thông qua sinh thiết lỏng, được xác định trong hai phương pháp điều trị qua đó sẽ kéo dài tuổi thọ trung bình của mỗi bệnh nhân.
Ung thư tuyến tiền liệt là một trong những bệnh ung thư phổ biến nhất ở nam giới, và có tỷ lệ sống sót cao nhất là 5 năm sau khi được chẩn đoán ở giai đoạn nhẹ (giai đoạn khu trú). Tuy nhiên nếu căn bệnh này được chẩn đoán đang ở giai đoạn nặng hoặc khi một khối u cục bộ bị tái phát sau khi được điều trị tại vị trí ban đầu, và để chống lại căn bệnh trên các bác sĩ thông thường sử dụng liệu pháp thiếu hormone nam (androgen). Không những thế căn bệnh trên có thể được thực hiện bằng phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn hoặc sử dụng những loại thuốc giúp loại bỏ sản xuất testosterone (hóa chất thiến). Hiện nay tới 90% bệnh nhân castration (thiến) sẽ phát triển thêm các dạng kháng thuốc có khả năng xâm lấn sau đó, và tỷ lệ sống của họ là khoảng 2 năm.
Vì thế trong số các phương pháp điều trị được sử dụng để kéo dài tuổi thọ ở bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt kháng castration, bao gồm taxanes docetaxel và cabazitaxel được kết hợp nhằm ngăn chặn phân chia tế bào và sự gia tăng tế bào. Tuy nhiên đối với liệu pháp hormone thế hệ mới, abiraterone và enzalutamide, thì ngược lại, nó gây ra nhiều tác động vào việc sản xuất androgen (hormone Nam): abiraterone là ức chế tổng hợp nó, trong khi enzalutamide chặn các thụ thể hạt nhân testosterone.
Tại thời điểm này cho thấy vẫn chưa có bất cứ nghiên cứu nào so sánh được hormone và taxanes, David Olmos giải thích. Tuy nhiên chỉ có những nghiên cứu trong các quần thể giống nhau và việc lựa chọn điều trị thích hợp chỉ được thực hiện theo kinh nghiệm của bác sĩ. Vì thế việc điều trị thường được bắt đầu bằng liệu pháp hormon, nhưng thực tế cho thấy nó chỉ phụ thuộc vào lựa chọn của bệnh nhân, mặc dù sau đó các bác sĩ đã đưa ra những thông báo đầy đủ cho bệnh nhân về liệu pháp mà họ đã chọn.
Kết quả nghiên cứu cho thấy bệnh nhân castration có khả năng chống ung thư tuyến tiền liệt kháng với với một số lượng bình thường của các bản sao của gen mã hóa các thụ thể androgen (AR) trong DNA ở khối u được điều trị bằng abiraterone / enzalutamide có nguy cơ thấp hơn trong việc tiến triển bệnh và cải thiện tuổi thọ cao hơn, với tỷ lệ sống cao hơn 50% so với docetaxel, tuổi thọ trung bình là khoảng 24 tháng. Mặt khác, bệnh nhân có nhiều bản sao của gen thụ thể androgen cho thấy đáp ứng tốt hơn với docetaxel, cải thiện tuổi thọ cao hơn, khoảng 9 tháng, so với abiraterone / enzalutamide.
Vì thế sự hiện diện của AR trong DNA khối u là dấu ấn sinh học đầu tiên được xác định bằng liệu pháp đầu tiên tốt nhất. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng cho thấy vấn đề cấp bách hiện nay cần được giải quyết là cần phải phát triển thêm nhiều phương pháp điều trị mới cho bệnh nhân có mức AR cao hơn, vì hiện nay nó đáp ứng không tốt với các liệu pháp hiện có.
Và sinh thiết bằng chất lỏng đã được chứng minh là một phương pháp đáng tin cậy, nhanh chóng và không xâm lấn qua đó có thể xác định sự thay đổi của một khối u cụ thể và đưa ra quyết định điều trị tốt nhất trong từng trường hợp. Olmos giải thích: "Việc sử dụng các công cụ tin sinh học cho thấy, chúng tôi có thể tính toán phân số DNA khối u có trong tổng DNA tự do trong huyết tương và trong phần đó, chúng tôi tính toán số lượng bản sao AR".
Cũng đối với nghiên cứu này, sinh thiết lỏng đã được sử dụng để "xác nhận một dấu hiệu có giá trị tiên lượng cũng có thể được sử dụng dự đoán. Và bước tiếp theo là tạo thêm một nghiên cứu ngẫu nhiên có thể để xác nhận kết quả."