Cây qua lâu: Thanh nhiệt, chống viêm, vàng da

Cây qua lâu hay còn gọi là hoa thiên phấn, dưa trời, dưa núi…
Cây qua lâu là một dây leo dài 3-10m, có rễ củ thuôn dài thắt khúc. Lá mọc so le, hình tim. Hoa đơn tính màu trắng. Quả hình cầu hoặc hình trứng, màu lục, khi chín màu đỏ, hạt nhiều, hình trứng dẹt, màu nâu.
Qua lâu có tên khác là dưa trời, dưa núi, hoa bát, vương qua (tên gọi ở miền Bắc) dây bạc bát, bát bát châu (tên miền Nam), người Tày gọi là thau ca.
Tên khoa học
Cây có tên khoa học là Trichosanthes sp, cây thuộc họ bầu bí.
Khu vực phân bố
Ở nước ta thiên hoa phấn thường phân bố ở một số tỉnh miền núi phía Bắc như Cao Bằng, Lạng Sơn.
Cách chế biến và thu hái
Muốn thu hái để chế biến thành vị thuốc hoa thiên phấn, khi tới mua cây ra hoa vào tháng 3 hàng năm người ta cắt hết hoa không cho cây ra hoa, kết quả nên do vậy rễ cây sẽ to mập và nhiều bột hơn.
Vào mùa thu và mùa đông người ta bắt đầu đào củ về rửa sạch, thái mỏng phơi khô để làm thuốc.
Bộ phận dùng và thành phần hóa học:
Theo sách Trung dược học: Quả Qua lâu có saponin, triterponoid, acid hữu cơ, resin, chất đường, sắc tố và dầu béo.
Mỗi bộ phận của cây qua lâu đều được chế biến thành những vị thuốc quý.
Qua lâu nhân (semen Trichosanthis):
Là nhân của hạt cây phơi khô, có dầu béo, trong đó có nhiều loại cholesterol.
Hạt lấy ở quả già, chắc, mập, phơi hoặc sấy khô. Tên thuốc là qua lâu nhân. Khi dùng đập nhẹ cho vỏ tách đôi, bỏ vỏ lấy nhân, giã nát (dùng sống) để trừ nhiệt. Có thể tẩm mật ong sao qua (bổ phế) để khỏi rát cổ (dùng chín). Qua lâu nhân có vị ngọt, hơi đắng, tính hàn, vào các kinh phế, vị và đại trường. Có tác dụng thanh nhiệt hoá đàm, nhuận phế, chống ho, nhuận tràng
Qua lâu bì (pericarpium trichosanthis):
Là quả và vỏ phơi khô,có nhiều loại amino acid và chất giống alkaloid.
Dược liệu có vị ngọt, hơi chua, mùi hơi giống mùi đường sao cháy, tính hàn, không độc, có tác dụng: Thanh nhiệt, chống viêm, cầm máu, chữa sốt nóng, ho, thổ huyết, thủy thũng, vàng da
Thiên hoa phấn (Radix Trichosanthis):
Chính là rễ cây thái mỏng phơi khô.
Rễ qua lâu đào về, cạo bỏ vỏ ngoài, rửa sạch, cắt thành từng đoạn, rễ nhỏ để nguyên, rễ to bổ dọc, phơi hay sấy khô. Các nhà nghiên cứu nhận thấy trong rễ cây có rất nhiều tinh bột. Viện y học Bắc Kinh đã tìm thấy trong thiên hoa phấn thấy có chừng 1% chất aponozit, một hoạt chất rất tốt cho những bệnh nhân mắc tiểu đường.

Bài thuốc:
Trị động mạch vành:
Dùng Qua lâu nhân chế thành viên dùng, ngày 3 lần mỗi lần 4 viên (lượng thuốc mỗi ngày tương đương với 31,2g thuốc sống, cá biệt bệnh nhân có cơn đau thắt ngực dùng Nitroglycerine hoặc Quan tâm tô hợp hoàn (thành phẩm)). Đã trị 100 ca và theo dõi từ 2 tuần đến 14 tháng. Có kết quả lâm sàng (triệu chứng giảm) 76% kết quả điện tâm đồ 52,9% (Tổ phòng trị bệnh động mạch vành - Bệnh viện Nhân dân số 3, trực thuộc Học viện Y số 2 Thượng hải, Tạp chí Tân y dược học 1974,3:20).
Báo cáo của 13 Bệnh viện ở Thượng hải dùng dịch chích Qua lâu trị 413 ca bệnh mạch vành, kết quả lâm sàng 78,1%, kết quả điện tâm đồ 56% (Thông tin Trung thảo dược 1976,9:47).
Trị viêm phế quản thể đàm nhiệt; ngực đau do đàm vàng hoặc ápxe phổi:
Tiểu hãm hung thang (Thương hàn luận): Qua lâu thực 12g, Bán hạ 10g, Hoàng liên 4g, sắc uống.
Toàn qua lâu, Ý dĩ nhân đều 15g, Cát cánh 10g, Kim ngân hoa 10g, Bồ công anh 12g, sắc uống. Bài này trị áp xe phổi có kết hợp trụ sinh kết quả tốt.
Trị viêm tuyến vú cấp:
Sưng nóng đỏ đau sốt.
Toàn qua lâu, Kim ngân hoa, Bồ công anh đều 15g sắc uống kết hợp rút ngắn thời gian điều trị.
Trị táo bón:
Qua lâu thực 15g, Cam thảo 3g, sắc uống, có thể hòa thêm ít mật ong.
Trị da xạm:
Thiên hoa phấn 16g giã nhỏ, thêm nước đun sôi để nguội lọc nước uống.
Trị trẻ em vàng da:
Thiên hoa phấn giã nhỏ, cho nước đun sôi để nguội gạn nước uống. Có thể thêm mật ong cho dễ uống.
Trị phụ nữ cho con bú ít sữa:
Thiên hoa phấn đốt tồn tính tán nhỏ ngày uống 16 - 20g.
Trị viêm họng mất tiếng:
Qua lâu bì, Bạch cương tằm, Cam thảo đều 10g, Gừng tươi 4g, nước 500ml sắc còn 150ml chia 2 lần uống trong ngày.
Chữa viêm tắc động mạch:
Qua lâu nhân 16g, đương quy, cam thảo (mỗi vị 20g), kim ngân hoa, xích thược, ngưu tất (mỗi vị 16g), huyền sâm, đào nhân, đan bì (mỗi vị 12g). Sắc uống ngày 1 thang.
Chữa lao phổi:
Qua lâu nhân 8g, sài hồ, hạ khô thảo, huyền sâm (mỗi vị 16g), bán hạ chế, chỉ xác, tang bạch bì (mỗi vị 8g). Sắc uống trong ngày.
Lưu ý:
Người tỳ vị hư hàn không dùng qua lâu nhân. Dùng nhiều sinh tiêu chảy.

Chữa mụn nhọt lâu ngày:
Thiên hoa phấn 8g, ý dĩ 12g, bạch chỉ 10g. Sắc hoặc tán bột uống.
Chữa viêm amidan mạn tính:
Thiên hoa phấn 8g, sinh địa 16g, hoài sơn, huyền sâm, ngưu tất (mỗi vị 12g), sơn thù, trạch tả, đan bì, phục linh, tri mẫu, địa cốt bì (mỗi vị 8g), xạ can 6g. Sắc uống trong ngày.
Chữa sốt nóng, da vàng, miệng khô khát:
Qua lâu căn 8g, hạt đậu đen 8g, sắc với 200ml còn 50ml, uống trong ngày.
Chữa tiểu đường:
Dùng 1 trong các bài sau.
Bài 1: Qua lâu căn 8g; thục địa 20g, hoài sơn 20g; đơn bì 12g, kỷ tử 12g, thạch hộc 12g; sơn thù 8g, sa nhân 8g. Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 2: Qua lâu căn 16g, đương quy 16g, phục linh 16g; hoàng liên 30g. Tán bột hoàn viên. Ngày uống 12 - 16g, uống với nước sắc bạch mao căn.
Bài 3: Qua lâu căn 30g, sinh địa 30g; ngũ vị tử 16g, mạch môn 16g, cát căn 16g; cam thảo 8g. Tán bột mịn, trộn đều. Mỗi ngày 10g, thêm gạo tẻ 20g, sắc uống.
Chữa tắc tia sữa:
Qua lâu căn 8g; bạch thược 12g; sài hồ 8g, đương quy 8g, xuyên sơn giáp 8g; thanh bì 6g, cát cánh 6g, thông thảo 6g. Sắc uống trong ngày.
Chữa sốt rét:
Qua lâu căn 8g; mẫu lệ 12g; sài hồ 8g, quế chi 8g, hoàng cầm 8g; can khương 6g, cam thảo 6g. Sắc uống.