Cây me đất hoa vàng
Còn gọi là tạc tương thảo, toan tương thảo, toan vị thảo, toan vị vị, chua me ba chìa, tam diệp toan.
Tên khoa học Oxalis corniculata L (Oxalis repens Thumb, Oxalis javanica Blume).
Thuộc họ Chua me đất Oxalidaceae.
Chua me đất hoa vàng.
Chua me đất hoa đỏ.
A. Mô tả cây
Chua me đất hoa vàng là một loại cỏ mọc lan bò trên mặt đất, thân đỏ nhạt, hơi có ông. Lá có cuống dài, gầy, hơi có lông, gồm 3 lá chét hần như nhẵn, mềm, mỗi lá chét có một vết hõm trên đầu thành hình tim ngược. Hoa mọc thành tán gồm 2-3 hoa, có khi 4 hoa màu vàng, cuống hoa gầy dài chừng 1-2cm. đài 5, tràng 5 màu vàng, nhị 10, dài ngắn khác nhau, xếp thành hai vòng, bàu 5 ô, 5 vòi. Quả nang, dài gấp 5-6 lần chiều cao của đài còn tồ tại, mở bằng 5 van. Hạt hình trứng, màu nâu thẫm, dẹt, có bướu, mọc thành hang rất đều. Mùa hoa: tháng 5-7.
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Rất hay gặp ở những bãi cỏ hoang. Còn thấy mọc hoang ở Châu âu, các nước thuộc châu Á khác (Ấn độ, Trung quốc, Philipin)
Người ta dùng toàn cây hay chỉ dùng lá: thường dùng tươi, ít khi phơi khô. Mùa thu hái tốt nhất vào các tháng 6-7
C. Thành phần hoá học
Mới biết trong lá và thân chua me có axit oxalic, oxalate axit kali. Các hoạt chất khác chưa rõ.
D. Công dụng và liều dùng
Tính chất của chua me theo đông y: chua (toan), lạnh (hàn) không độc. dùng làm thuốc giải nhiệt, khát nước, chữa xích bạch đới, sát trùng.
Trong nhân dân dùng toàn cây chua me sao vàng sắc uống chữa sốt, lỵ: Tại Ấn độ, Philipin, nhân dân dùng chữa bệnh scobut. Còn dùng làm thuốc thông tiểu tiện, chữa viêm niệu đạo. Dùng lá đánh dồ đồng cho bóng sang do chất axit oxalic.
Ngày dùng 30-50g cây hoặc lá tươi, nếu dùng khô chỉ cần 5-10g, dưới dạng thuốc sắc. dùng ngoài (nước sắc hoặc giã cây tươi vắt lấy nước) để rửa các vết loét. Những người có sỏi trong bọng đái không nên dùng vì oxalate có thể làm tăng lượng sỏi. Cũng không nên dùng liều quá cao vì muối oxalate độc với liều 20-30g.
Chú thích:
Ngoài cây chua me hoa vàng kể trên, ở nhiều nơi trong nước ta còn thấy mọc hoang loại chua me đất đỏ (Oxalis deppei Sw). Còn gọi là rau bợ là một loại cỏ có thân ngầm. Bẹ lá phồng lên, chứa nhiều tinh bột làm cho thân trông có vẻ như một hành. Lá kép có cuống dài, cấu tạo bởi 3 lá chét hình tim ngược. Hoa mọc thành chùm và có 5 lá đài, 5 cánh hoa màu hồng, 10 nhị xếp thành 2 vành, vành ngoài đối diện với các cành hoa, vành trong đối diện với các lá đài. Bầu 5 ô, hợp thành bầu thượng, 5 vòi rời nhau. Quả là một nang mở bằng 5 van. Cây này cũng thường mọc dại ở các bãi cỏ. lá có vị chua (axit oxalic và oxalate axit kali) và nhân dân luộc ăn với rau muống. Ít thấy dùng làm thuốc.
Tại những vùng núi khí hậu mát như Sapa (Lào cai) còn gặp một loại chua me núi-sơn tạc tương thảo (Oxalis acetosella L) cùng họ. Đây cũng là một loại cỏ không có thân, lá kép gồm 3 lá chét, hoa trắng hay hồng. Lá cũng có vị chua vì chứa nhiều oxalate axit kali; trước kia ở Châu âu dùng cây này với chất màu giặt quần áo bị sắt gỉ. Lá và toàn cây cũng được coi như một vị giải khát, chữa sốt, chữa bệnh scobut, điều kinh. Dùng với liều 30-60g cây hay lá tươi trong một ngày, vò lấy nước hay sao khô sắc uống.
Tên rau bợ chua me-hồng hoa tạc tương thảo còn dùng để chỉ một cây nữa Oxalis corymbosa DC (Oxalis martiana Zucc) cùng họ: đó là một loại cỏ không thân, có dò, phủ nhiều vẩy. Lá ở gốc, kép gồm 3 lá chét, hình tim ngược, dài chừng 2cm, rộng 3cm, hoa màu hồng. Đôi khi cũng được dùng uống cho mát và thông tiểu tiện