Cây Hoàng Bá trị lỡ miệng loét lưỡi
Tên khác: Hoàng nghiệt
Tên khoa học: Phellodendron amurense Rupr. (Phellodendron amurense Rurp.var sachalinense Fr. Schmidt)
Thuộc họ: Cam Rutaceae
Hoàng bá (Cortex Phellodendri amurensis) là vỏ thân cạo sạch vỏ ngoài phơi hay sấy khô của cây hoàng bá Phellodendron amurense Rurp., hoặc của cây xuyên hoàng bá Phellodendron amurense Rurp.var sachalinense Fr. Schmidt đều thuộc họ Cam Rutaceae.
Vị hoàng bá thật hiện nay còn phải nhập vì cây này hiện nay chưa có ở nước ta, đang di thực và mới được một số cây. Ta thừờng dùng một số vỏ cây khác có màu vàng như vỏ cây núc nác (xem vị này) với tên hoàng bá nam, hay nam hoàng bá. Cần chú ý tránh nhầm lẫn.
Vốn tên cũ là hoàng ngiệt là vỏ màu của cây nghiệt. sau này người ta dùng chữ bá thay cho chữ nghiệt để viết cho đơn giản
(chữ nho)
A. Mô tả cây
Hoàng bá là một cây cao to, có thể cao tới 2-25m, đường kính thân có thể đạt tới 70cm. Vỏ thân dầy phân thành 2 tầng rõ rệt. tầng ngoài màu xám, tầng trong màu vàng. Lá mọc đối, kép gồm 5-13 lá chét nhỏ hình trứng dài, ép nguyên. Hoa tím đen, trong chứa 2-5 hạt. Ra hoa mùa hạ ngoài cây hoàng bá kể trên, tại Trung quốc người ta còn khai thác vỏ cây xuyên hoàng bá Phellodendron amurense Rupr var sachalinense Fr. Schmidt (có tác giả xác định Phellodendron sonensis Schneider), cây nhỏ và thấp hơn, 7-15 lá chét, ủa hình trứng, còn quả cây hoàng bá nói trên hình cầu
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Vị hoàng bá thật hiện còn phải nhập. Tại Trung quốc, hoàng bá mcọ ở Hắc Long
Giang, Hà bắc, Tứ xuyên, Vân nam, Quý châu. Tại nước Nga, hoàng bá mọc nhiều ở vùng Xiberi.
Mấy năm gần đây chúng ta đã xin được hạt và bát đầu trồng thí nghiệm. sơ bộ thấy cây mọc khỏe, tốt. nhưng chưa đưa ra trồng quy mô lớn.
Vỏ thân thường hái vào mùa hạ, cạo sạch vỏ ngoài, chỉ còn lớp trong dày chừng 1cm, sau đó cắt thành từng miếng dài 9cm, rộng 6cm, phơi khô. Loại tốt có màu vàng tươi rất đẹp, vị rất đắng.
C. Thành phần hóa học
Trong hoàng bá có chừng 1,5% becberin C20H19O5N, một ít panmatin C21H23O5N
Ngoài ra trong hoàng bá còn có những chất có tinh thể, không chứa nitơ như obakunon C26H30O7 và obakulacton C26H30O8, chất béo, hợp chất sterolic
Phản ứng hóa học thử hoàng bá: lấy chừng 0,2g bột, them 2ml axit axetic, đun sôi nhẹ, ọc. Phần lọc them dung dịch iot sẽ ch kết tủa màu vàng (becberin iodua)
Phản ứng Liebecman xác định sự có mặt hợp chất strolic
Bột hay mảnh vỏ soi ánh ngoại tím cho hùynh quang màu vàng tươi
D. Tác dụng dược lý
Nhiều thí nghiện chứng minh tác dụng kháng sinh của hoàng bá, dịch chiết bằng cồn ức chế các vi trùng Staphyllococcus, lỵ, thổ tả, Salmonella (Thực vật học báo 1954, 3(2): 121131, Giang tây Trung y báo 1956 2: 54-58)
E. Công dụng và liều dùng
Thuốc bổ đắng, giúp cho sự tiêu hóa, kém chưa đi rửa, bệnh do khuẩn ở ruột lỵ. Còn dùng rửa mặt, thay hoàng liên chế becberin, chữa giun, thuốc nhuộm, đắp chữa mụn nhọt, vết thương. Ngày dùng 5-10g dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột
Đông y coi hòang bá có vị đắng, lạnh không độc có tác dụng tả tướng hoả, thanh thấp nhiệt, dùng làm thuốc kiện vị, ngoại khoa chữa mắt và bệnh ngoài da, còn dùng chữa hoàng đản, trĩ hậu môn, phụ nữ bị xích bạch đới.
Đơn thuốc có hoàng bá
Kiện vị kém tiêu hoá, hoàng đản do viêm ống mật: hoàng bá 12g, chi tử 12g, cam thảo 6g, nước 60ml. Sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày
Người có thai đi lỵ: hoàng bá tẩm mật so cho cháy, tán nhỏ. Dùng một củ tỏi nướng chín, bóc vỏ giã nát them bột hoàng bá vào viên bằng hạt ngô. Ngày uống 3 lần mỗi lần
30-40 viên
Lở miệng, loét lưỡi: hoàng bá chẻ nhỏ, ngậm. nước có thể nuốt hay nhổ đi
Chú thích: Trong nhân dân ta thường dùng vỏ cây núc nác với tên hoàng bá hay nam hoàng bá. Hai vị thuốc có thành phần khác hẳn nhau nhưng lại có một số tác dụng giống nhau