Các nhà khoa học xác định gen góp phần kháng thuốc ung thư tuyến tiền liệt
Ung thư tuyến tiền liệt còn có tên gọi khác là ung thư tiền liệt tuyến, đây là dạng ung thư rất nguy hiểm ở nam giới. Giai đoạn đầu của bệnh thường phát triển chậm, các dấu hiệu xuất hiện không rõ ràng nhưng đến giai đoạn cuối (di căn) căn bệnh trên sẽ xuất hiện các triệu chứng như tiểu ngắt quãng, tiểu ra máu, đau khi đi tiểu,…Và có thể lây lan sang các vùng khác của cơ thể như xương và các hạch bạch huyết.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra một loại gen có thể điều chỉnh các thụ thể của hormone cải thiện tình trạng kháng thuốc ở bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt.
Và phát hiện này, được công bố trên eLife, cho thấy việc gián đoạn hoạt động của gen GREB1 có thể được khám phá nhằm phát triển các liệu pháp hiệu quả hơn trong tương lai.
Androgens, được biết đến là một hormone ở nam giới, và đóng vai trò khuyến khích sự phát triển của các tế bào ung thư tuyến tiền liệt. Vì thế các liệu pháp hormone được phát triển để chống lại hoạt động này. Ở những phương pháp điều trị này, được nhắm vào một phân tử protein được kích hoạt bởi hormone thụ thể androgen (AR) - đem lại hiệu quả chống lại ung thư tuyến tiền liệt tuy nhiên lại bị ngăn chặn bởi một loại kháng thuốc. Từ đó dẫn đến sự gia tăng số lượng và hoạt động của Androgens.
Đối với các nghiên cứu trước đây, đã phát hiện ra sự gia tăng hoặc đột biến của Androgens có trong hơn 50% bệnh nhân kháng thuốc ung thư tuyến tiền liệt. Bên cạnh đó, sự gia tăng Androgens cho thấy liên quan đến tình trạng kháng thuốc cao hơn so với các thuốc ức chế Androgens thế hệ tiếp theo: Abiraterone và Enzalutamide.
Eugine Lee, Nghiên cứu viên tại phòng thí nghiệm của Charles Sawyer, tại Trung tâm Ung thư Memorial Sloan Kettering, Hoa Kỳ giải thích: Nhờ vào các nghiên cứu này mà thông tin về một số khác biệt về hoạt động của Androgens trong ung thư tuyến tiền liệt đã được tiết lộ. Tuy nhiên điều đáng chú ý ở đây là, những khác biệt này xảy ra trong những trường hợp không có sự thay đổi di truyền trong Androgens, và thường chỉ được tìm thấy trong kháng thuốc. Vì thế, một lời giải thích đã được đưa ra về hoạt động của Androgens được khuyến khích bởi các kết hợp ở các gen và protein khác qua đó các chức năng của Androgens và xem đây là một trường hợp cần được xác thực.
Lần đầu tiên, Lee cùng nhóm của cô đã phân loại được các tế bào ung thư tuyến tiền liệt với hoạt động Androgens thấp hơn. Và họ phát hiện ra rằng những trường hợp có lượng Androgens cao đã giảm đi những tác động nhạy cảm với enzalutamide, với điều kiện là trong những trường hợp này không có nhiều thay đổi trong biểu hiện protein trong Androgens.
Tiếp theo họ đã xác định được ba gen hoạt động mạnh mẽ nhất trong các tế bào có lượng Androgens cao như GREB1, KLF8, GHRHR. Và trong số các gen này, chúng tôi ưu tiên GREB1 cần nghiên cứu thêm vì mức độ biểu hiện của gen này cao hơn trong các khối u tuyến tiền liệt với hoạt động Androgens cao, Lee nói.
Ngoài ra, những phân tích mới của các nhà nghiên cứu cho thấy GREB1 làm tăng hoạt động Androgens thông qua các quá trình như sau: GREB1 liên kết với Androgens, thúc đẩy hoạt động và cải thiện hiệu quả việc kết hợp của Androgens với DNA, từ đó giúp tăng cường hoạt động của Androgens. Điều quan trọng trong phân tích này là nhóm nghiên cứu đã phát hiện ra việc ức chế các tế bào được chuyển đổi thành GREB1 với lượng Androgens cao sang mức độ thấp và điều này cho thấy việc điều trị enzalutamide đã được cải thiện hiệu quả.
Charles Sawyer, tác giả cao cấp của Viện nghiên cứu bệnh học Howard Hughes cho biết: Nhìn chung từ kết quả phân tích của chúng tôi cho thấy GREB1 giúp khuếch đại của hoạt động Androgens, góp phần vào sự tiến triển của bệnh ung thư tuyến tiền liệt và thúc đẩy kháng androgen trong các mô hình bệnh.
Hiện tại, cần nghiên cứu thêm về ý nghĩa lâm sàng, đặc biệt là mức độ GREB1 ở bệnh nhân kháng thuốc có thể được sử dụng để dự đoán đáp ứng của họ với liệu pháp Androgens thế hệ tiếp theo hay không.
Thực tế, nếu căn bệnh này được phát hiện sớm và tuân thủ theo phác đồ điều trị của bác sĩ, thì khả năng khỏi bệnh của bệnh nhân rất khả quan. Ngoài ra, các liệu pháp điều trị cho căn bệnh này ngày càng được phát triển, nâng cao hiệu quả điều trị và cải thiện tỷ lệ sống cho bệnh nhân.