Ung thư cổ tử cung là gì?
Tổng quan về ung thư cổ tử cung
Cổ tử cung là phần thấp nhất trong tử cung ở phụ nữ (dạ con), liên kết giữa tử cung và âm đạo.
Ung thư cổ tử cung xảy ra khi các tế bào của cổ tử cung phát triển bất thường và tấn công vào các mô cũng như cơ quan khác của cơ thể. Khi xâm lấn, tế bào ung thư sẽ ảnh hưởng đến các mô của cổ tử cung nhiều hơn và có thể đã lan sang các bộ phận khác của cơ thể (di căn), nhưng đáng chú ý nhất là phổi, gan, bàng quang, âm đạo và trực tràng.
Hiện nay, căn bệnh này thường phát triển chậm, vì vậy việc phòng ngừa, phát hiện và chữa trị sớm là điều cần thiết. Bên cạnh đó, các xét nghiệm đang ngày càng tiến bộ hơn, giúp cho nguy cơ mắc bệnh ung thư cổ tử cung ở Mỹ đã giảm đi đáng kể trong nhiều thập kỷ qua.
Hầu hết phụ nữ được chẩn đoán giai đoạn tiền ung thư cổ tử cung thường xảy ra trong độ tuổi 20 và 30, nhưng độ tuổi trung bình của phụ nữ khi họ được chẩn đoán mắc bệnh là khoảng 50 tuổi. Tuy nhiên sự khác biệt về độ tuổi của giai đoạn tiền ung thư và ung thư, càng làm nổi bật sự phát triển chậm của căn bệnh này cũng như lý do tại sao nó có thể được ngăn chặn nếu thực hiện đầy đủ các bước.
Nguyên nhân gây ung thư cổ tử cung
HPV (Human papillomavirus)
Cho đến nay, ung thư cổ tử cung xảy ra là do những thay đổi bất thường trong mô cổ tử cung. Và chúng có thể liên quan đến nhiễm trùng vi-rút papillomavirus ở người (HPV - Human papillomavirus). Bên cạnh đó, việc quan hệ tình dục sớm, nhiều bạn tình, uống thuốc tránh thai (thuốc ngừa thai) làm tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung (vì chúng dẫn đến tiếp xúc nhiều hơn với HPV).
HPV (Human papillomavirus - một loại virus có rất nhiều loại khác nhau) được biết đến là một loại virus gây ra mụn cóc ở da, mụn cóc ở bộ phận sinh dục và các rối loạn da bất thường khác, đã được chứng minh dẫn đến nhiều thay đổi trong các tế bào cổ tử cung, theo thời gian chúng có thể dẫn đến ung thư. Hiện tại một số loại HPV cũng có thể liên quan đến các loại ung thư khác như âm hộ, âm đạo, dương vật, hậu môn, lưỡi và amidan. Trong đó cấu trúc di truyền đến từ một số dạng HPV khác đã được tìm thấy trong các mô ung thư cổ tử cung hoặc tiền ung thư.
Ngoài ra, những phụ nữ đã được chẩn đoán nhiễm HPV cũng có nhiều khả năng phát triển ung thư cổ tử cung. Hoặc những bé gái bắt đầu hoạt động tình dục trước năm 16 tuổi hay trong vòng một năm kể từ khi bắt đầu có kinh nguyệt đều gia tăng nguy cơ cao mắc ung thư cổ tử cung.
Bên cạnh đó hút thuốc lá cũng là một yếu tố nguy cơ cho sự phát triển của ung thư cổ tử cung. Thông thường các hóa chất trong khói thuốc lá tương tác với các tế bào của cổ tử cung, gây ra những thay đổi trong giai đoạn tiền ung thư, theo thời gian nó có thể tiến triển thành ung thư. Hiện tại nguy cơ ung thư cổ tử cung ở những người hút thuốc lá cao từ hai đến năm lần so với dân số nói chung.
Cuối cùng là thuốc tránh thai (“thuốc viên”), được biết đến có thể làm tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung, bởi vì chúng làm giảm việc sử dụng bao cao su, đặc biệt nếu nữ giới sử dụng lâu hơn 5 năm.
Triệu chứng ung thư cổ tử cung
Chảy máu âm đạo bất thường
Cũng như nhiều bệnh ung thư khác, ung thư cổ tử cung có thể không gây ra bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng nào cho đến khi căn bệnh này tiến triển đến giai đoạn nguy hiểm. Chúng có thể bao gồm:
- Đau, khi ung thư tiến triển.
- Chảy máu âm đạo bất thường (trừ khi có kinh nguyệt).
- Dịch tiết âm đạo bất thường.
- Đau vùng xương chậu.
- Suy thận do đường tiết niệu hoặc tắc ruột, khi ung thư tiến triển.
Khi nào cần chăm sóc y tế
Cảm thấy ngất xỉu hoặc xây xẩm
Hiện nay một số tình trạng phổ biến có thể gây chảy máu âm đạo và không liên quan đến ung thư cổ tử cung. Chúng thường thay đổi dựa trên tuổi tác, khả năng sinh sản cũng như lịch sử y tế của bạn.
Tuy nhiên chảy máu âm đạo sau mãn kinh là không bình thường. Nhưng nếu bạn đã trải qua thời kỳ mãn kinh và có chảy máu âm đạo, hãy gặp bác sĩ chăm sóc sức khỏe của bạn càng sớm càng tốt.
Không những thế tình trạng chảy nhiều máu trong thời gian mắc bệnh hoặc chảy máu thường xuyên giữa các giai đoạn, cũng cần được đánh giá bởi nhà cung cấp chăm sóc sức khỏe của bạn.
Hoặc nếu bạn bị chảy máu sau khi giao hợp, đặc biệt là sau khi quan hệ tình dục (mạnh mẽ), điều này có thể xảy ra ở một số phụ nữ. Nhưng nếu tình trạng này chỉ thỉnh thoảng xảy ra, có lẽ bạn không có gì phải lo lắng. Tuy nhiên, bạn vẫn cần đánh giá của nhà cung cấp chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là nếu chảy máu xảy ra liên tục.
Và nếu tình trạng chảy máu âm đạo của bạn có liên quan đến tình trạng yếu ớt, cảm thấy ngất xỉu hoặc xây xẩm, hay ngất xỉu thực sự, hãy đến phòng cấp cứu ngay lập tức để được chăm sóc.
Khám và xét nghiệm ung thư cổ tử cung
Khoét chóp cổ tử cung bằng vòng điện (LEEP - Loop electrosurgical excision procedure)
Hiện tại tương tự như tất cả các bệnh ung thư khác, việc được chẩn đoán sớm là chìa khóa giúp điều trị thành công ung thư cổ tử cung. Trong đó việc điều trị từ giai đoạn tiền ung thư (chỉ ảnh hưởng đến bề mặt của một phần nhỏ của cổ tử cung) có nhiều khả năng thành công hơn so với điều trị ung thư xâm lấn (ảnh hưởng đến một phần lớn cổ tử cung và đã lan sang các mô khác).
Nhưng hiện nay, xét nghiệm Papanicolaou (Pap smear - xét nghiệm Pap - phết tế bào cổ tử cung) và xét nghiệm HPV (nguy cơ cao) được xem là tiến bộ quan trọng nhất trong việc phát hiện sớm ung thư cổ tử cung. Trong đó xét nghiệm Pap được thực hiện như một phần của kiểm tra thông thường. Chúng thu thập các tế bào từ bề mặt của cổ tử cung và kiểm tra các bất thường. Ngoài ra, sinh thiết cũng giúp chẩn đoán ung thư cổ tử cung bằng cách lấy mẫu mô cổ tử cung và phân tích dưới kính hiển vi. Điều này sẽ được thực hiện nếu xét nghiệm Pap cho thấy kết quả bất thường.
Ngoài ra, còn rất nhiều phương pháp chẩn đoán khác nhau có thể được sử dụng để xác định những thay đổi trong cổ tử cung. Chúng bao gồm:
- Soi cổ tử cung (Colposcopy)
là một thủ tục tương tự như khám phụ khoa. Chúng thường được sử dụng cho bệnh nhân có kết quả xét nghiệm Pap bất thường nhưng có kết quả khám thực thể bình thường. Trong đó xét nghiệm này sử dụng một loại kính hiển vi gọi là soi cổ tử cung để kiểm tra cổ tử cung. Tiếp theo toàn bộ khu vực của cổ tử cung được nhuộm bằng thuốc nhuộm vô hại hoặc axit axetic để làm cho các tế bào bất thường dễ nhìn thấy hơn. Sau đó những khu vực này được sinh thiết. Thông thường máy soi cổ tử cung có thể phóng to cổ tử cung từ 8 đến 15 lần (phụ thuộc vào máy soi cổ tử cung), cho phép xác định dễ dàng hơn bất kỳ mô bất thường nào và cần sinh thiết. Hiện tại thủ tục này có thể được thực hiện tại văn phòng bác sĩ phụ khoa. Tuy nhiên nếu kết quả cho thấy đây là ung thư xâm lấn, thì sinh thiết lớn hơn là cần thiết để đánh giá đầy đủ tình trạng của bạn. Và điều trị sẽ phụ thuộc vào giai đoạn ung thư.
- Khoét chóp cổ tử cung bằng vòng điện (LEEP - Loop electrosurgical excision procedure),
đây là kỹ thuật sử dụng một vòng điện (có chức năng giống như một con dao phẫu thuật), sau đó dòng điện sẽ dẫn qua vòng này và lấy mẫu mô từ cổ tử cung. Thủ tục này thường có thể được thực hiện trong văn phòng bác sĩ phụ khoa.- Khoét chóp cổ tử cung (tên tiếng anh là conization)
, đây là thủ thuật loại bỏ một phần của cổ tử cung) được thực hiện trong phòng mổ và bạn được gây mê. Thủ thuật này có thể được thực hiện chúng với khoét chóp cổ tử cung bằng vòng điện (LEEP - Loop electrosurgical excision procedure), với dao mổ (bằng dao lạnh) hoặc laser. Trong thủ tục này, một phần hình nón nhỏ của cổ tử cung được lấy ra để kiểm tra.
Cho đến nay khoét chóp cổ tử cung bằng vòng điện (LEEP - Loop electrosurgical excision procedure) hoặc bằng dao lạnh, có thể giúp xác định đầy đủ hơn các loại tế bào và mức độ chúng đã lan đến các khu vực bên dưới. Ngoài ra chúng có thể được sử dụng để chẩn đoán các vấn đề hoặc điều trị các tình trạng đã biết.
Giai đoạn tiền ung thư
Tổn thương biểu mô gai
Trong những năm qua, các thuật ngữ khác nhau đã được sử dụng để chỉ những thay đổi bất thường trong các tế bào trên bề mặt cổ tử cung. Những thay đổi này thường được gọi là tổn thương nội biểu mô vảy (Squamous Intraepithelial Lesions - SIL). Trong đó "Lesion - thương tổn" dùng để chỉ một vùng mô bất thường; “Intraepithelial - nội mô” có nghĩa là các tế bào bất thường chỉ hiện diện trong lớp bề mặt của tế bào. Thông thường sự thay đổi trong các phân tử này có thể được chia thành hai loại:
Tổn thương biểu mô gai mức độ thấp (L-SIL: low-grade squamous intra-epithelial lesion):
Những thay đổi sớm về kích thước và hình dạng của các tế bào hình thành trên bề mặt cổ tử cung được coi là cấp thấp. Trong đó những tổn thương này có thể tự biến mất, nhưng theo thời gian, chúng có thể trở nên bất thường hơn, cuối cùng trở thành một tổn thương nghiêm trọng. Ngoài ra, LGSIL còn được gọi là loạn sản nhẹ hoặc dị sản nhẹ (CIN I: cervical intra epithelium neoplasm). Hiện tại những thay đổi này thường xảy ra ở cổ tử cung của phụ nữ từ 25 đến 35 tuổi, nhưng cũng có thể xuất hiện ở phụ nữ ở mọi lứa tuổi.Tổn thương biểu mô gai mức độ cao (H-SIL: high-grade squamous intra-epithelial lesion):
Đây là một số lượng lớn các tế bào giai đoạn tiền ung thư, trông rất khác so với các tế bào bình thường, tạo thành một tổn thương nghiêm trọng. Và cũng giống như tổn thương biểu mô gai mức độ thấp, chúng chỉ liên quan đến các tế bào trên bề mặt cổ tử cung. Thông thường những tổn thương này còn được gọi là loạn sản vừa hoặc nặng, dị sản trung bình (CIN II) và dị sản nặng (CIN III), hoặc ung thư biểu mô tại chỗ. Và chúng thường phát triển ở phụ nữ từ 30 đến 40 tuổi, nhưng cũng có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi.
Thực tế các tế bào giai đoạn tiền ung thư, thậm chí các tổn thương nghiêm trọng, không thể trở thành ung thư và không xâm lấn đến nhiều mô của cổ tử cung trong nhiều tháng, thậm chí là nhiều năm.
Ung thư xâm lấn
Soi cổ tử cung
Nếu các tế bào bất thường lây lan nhiều hơn vào cổ tử cung hoặc đến các mô hoặc cơ quan khác, thì bệnh này được gọi là ung thư cổ tử cung, ung thư cổ tử cung xâm lấn hoặc ung thư di căn. Và chúng xảy ra thường xuyên nhất ở phụ nữ từ 40 tuổi trở lên.
Tuy nhiên nếu kết quả sinh thiết cho thấy ung thư xâm lấn (đây một loạt các xét nghiệm có thể được thực hiện, tất cả được thiết kế để xem liệu ung thư đã lan rộng hay chưa và nếu có thì bao xa). Chúng bao gồm:
- Chụp X quang để xem ung thư đã lan đến phổi hay chưa.
- Xét nghiệm máu có thể cho biết gan có bị liên quan hay không; hoặc chụp CT có thể cần thiết nếu kết quả không rõ ràng.
- Tia X đặc biệt được gọi là chụp X quang bể thận bằng đường tĩnh mạch (Intravenous Pyelography, IVP) hoặc chụp CT có thể được sử dụng để xem xét đường tiết niệu; còn các bàng quang và niệu đạo được đánh giá bởi soi bàng quang.
- m đạo được kiểm tra bằng soi cổ tử cung; trực tràng được đánh giá bằng phương pháp soi đại tràng và chụp X quang cản quang (Barium Enema).
- Các hạch bạch huyết được đánh giá bằng chụp CT, MRI hoặc PET; Trong đó MRI vượt trội hơn so với chụp CT, còn chụp PET thì vượt trội hơn cả hai.
Những xét nghiệm này được sử dụng để đánh giá "giai đoạn" ung thư. Bằng cách tìm hiểu xem nó đã lan rộng đến đâu, các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe có thể đưa ra dự đoán hợp lý về tiên lượng và loại điều trị bạn sẽ cần.
- Ung thư cổ tử cung được đánh giá từ giai đoạn 0 (ít nghiêm trọng nhất) đến giai đoạn IV (ung thư di căn, nặng nhất).
- Giai đoạn này dựa trên kích thước và độ sâu của tổn thương ung thư, cũng như mức độ lan rộng.
Điều trị ung thư cổ tử cung
Khoét chóp cổ tử cung bằng dao lạnh
Hiện tại việc điều trị tập trung vào các tổn thương khác trong giai đoạn tiền ung thư và ung thư cổ tử cung xâm lấn.
Tổn thương trong giai đoạn tiền ung thư
Lựa chọn điều trị cho một tổn thương trong giai đoạn tiền ung thư sẽ phụ thuộc vào một số yếu tố, bao gồm cả tổn thương thấp hay cao, hoặc nếu bạn muốn có con trong tương lai, tuổi tác, sức khỏe nói chung, sở thích và nhà cung cấp chăm sóc sức khỏe của bạn.
- Nếu bạn có một tổn thương cấp độ thấp (dị sản nhẹ - CIN I, được phát hiện bởi xét nghiệm Pap), bạn có thể không cần điều trị thêm, đặc biệt nếu khu vực bất thường đã được loại bỏ hoàn toàn trong khi sinh thiết. Tuy nhiên bạn nên đi xét nghiệm Pap thường xuyên và khám phụ khoa, theo lịch trình của bác sĩ.
- Khi một tổn thương tiền ung thư cần điều trị, khoét chóp cổ tử cung bằng vòng điện (LEEP - Loop electrosurgical excision procedure), khoét chóp cổ tử cung bằng dao lạnh, phẫu thuật lạnh (đóng băng), thủ thuật đốt (còn gọi là diathermy - đốt điện), hoặc phẫu thuật laser có thể được sử dụng để phá hủy khu vực bất thường trong khi vẫn giảm thiểu thiệt hại cho mô khỏe mạnh gần đó.
- Điều trị các tổn thương tiền ung thư có thể gây ra chuột rút hoặc các cơn đau khác, chảy máu hoặc chảy nước âm đạo.
Trong một số trường hợp, bạn có thể chọn phẫu thuật cắt tử cung, đặc biệt nếu các tế bào bất thường được tìm thấy bên trong lỗ cổ tử cung hoặc bạn bị loạn sản nặng hay tái phát. Thông thường phẫu thuật này có nhiều khả năng được thực hiện nếu bạn không có kế hoạch sinh con trong tương lai.
Tuy nhiên các thủ tục chẩn đoán, chẳng hạn như khoét chóp cổ tử cung bằng vòng điện và khoét chóp cổ tử cung bằng dao lạnh, đôi khi cũng có thể được sử dụng để điều trị tiền ung thư cổ tử cung. Cả hai thủ thuật này điều liên quan đến việc lấy mô để xem xét. Và nếu kết quả tìm thấy các tế bào bất thường, nhưng chúng không mở rộng vào nơi mô bị cắt, thì có thể chỉ cần theo dõi.
Nhưng nếu kết quả thực sự không rõ ràng về việc tất cả các tế bào trong giai đoạn tiền ung thư đã được loại bỏ bằng cách sử dụng khoét chóp cổ tử cung bằng vòng điện hoặc khoét chóp cổ tử cung bằng dao lạnh, thì có thể bạn phải cần điều trị thêm.
Thủ thuật đốt lạnh (Cryocautery) có thể được sử dụng trong một số trường hợp. Trong quy trình này, một dụng cụ bằng thép được làm lạnh đến nhiệt độ subzero (dưới số 0) bằng cách ngâm trong nitơ lỏng hoặc chất lỏng tương tự. Tiếp theo dụng cụ siêu lọc này được sử dụng cho bề mặt của cổ tử cung, và các tế bào đóng băng. Sau đó chúng sẽ chết và bị bong ra, cuối cùng được thay thế bởi các tế bào cổ tử cung mới.
Bên cạnh đó, mô cũng có thể được loại bỏ bằng thủ thuật laser. Trong thủ tục này, một chùm tia laser được áp dụng cho cả các khu vực cụ thể của mô cổ tử cung hoặc toàn bộ một lớp mô ở bề mặt của cổ tử cung. Cuối cùng tia laser phá hủy các tế bào này, để lại các tế bào khỏe mạnh.
Hiện nay sự thành công của các thủ tục cắt bỏ bằng phương pháp lạnh hoặc laser được xác định bằng một kiểm tra tiếp theo và xét nghiệm Pap. Trong đó không thủ tục nào được sử dụng để lấy mẫu mô và kiểm tra; mà chúng chỉ phá hủy các mô bất thường. Do đó, rìa hoặc mép của cổ tử cung không thể được kiểm tra nhằm đảm bảo ung thư không lan rộng.
Ung thư xâm lấn
Liệu pháp xạ trị (hay xạ trị)
Hiện tại các phương pháp điều trị được sử dụng rộng rãi nhất cho ung thư cổ tử cung xâm lấn là phẫu thuật và xạ trị. Đôi khi hóa trị hoặc liệu pháp sinh học cũng được sử dụng.
Nếu sinh thiết cho thấy các tế bào ung thư đã xâm lấn qua một lớp gọi là màng đáy, đây là nơi ngăn cách các lớp bề mặt của cổ tử cung với các lớp bên dưới khác, thường phải được phẫu thuật. Và mức độ của phẫu thuật sẽ khác nhau, tùy thuộc vào giai đoạn ung thư.
Trong ung thư cổ tử cung, phẫu thuật giúp loại bỏ mô trong hoặc gần cổ tử cung.
Nếu ung thư chỉ ở trên bề mặt cổ tử cung, các tế bào ung thư có thể được loại bỏ hoặc phá hủy bằng cách sử dụng các phương pháp tương tự như phương pháp điều trị các tổn thương tiền ung thư, như khoét chóp cổ tử cung bằng vòng điện (LEEP - Loop electrosurgical excision procedure), khoét chóp cổ tử cung bằng dao lạnh.
Nếu bệnh đã xâm lấn vào các lớp sâu hơn của cổ tử cung nhưng không lan ra ngoài cổ tử cung, một cuộc phẫu thuật có thể loại bỏ khối u nhưng vẫn để lại tử cung và buồng trứng.
Nếu bệnh đã lan vào tử cung, thì phẫu thuật cắt bỏ tử cung và cổ tử cung thường là cần thiết. Đôi khi, buồng trứng và ống dẫn trứng cũng được loại bỏ. Ngoài ra, các hạch bạch huyết gần tử cung cũng có thể được loại bỏ để kiểm tra sự lây lan của ung thư. Đôi khi phẫu thuật cắt tử cung cũng được thực hiện để ngăn ngừa ung thư lan rộng.
Liệu pháp xạ trị (hay xạ trị)
cũng được sử dụng để điều trị ung thư cổ tử cung ở một số giai đoạn. Trong đó xạ trị sử dụng các tia năng lượng cao để làm hỏng các tế bào ung thư và ngăn chặn sự phát triển của chúng. Và cũng giống như phẫu thuật, xạ trị là liệu pháp tại chỗ; khi đó các bức xạ ảnh hưởng đến các tế bào ung thư chỉ trong khu vực được điều trị. Tuy nhiên bức xạ cũng có thể được áp dụng bên ngoài hoặc bên trong. Và cũng có một số phụ nữ nhận được cả hai loại.Đối với bức xạ bên ngoài đến từ một thiết bị lớn, nhằm vào một chùm bức xạ ở xương chậu của người bệnh. Tuy nhiên phương pháp điều trị này, chỉ mất vài phút, và thường được thực hiện 5 ngày một tuần, trong 5 đến 6 tuần. Vào cuối thời gian đó, một liều phóng xạ bổ sung còn gọi là "tăng cường" có thể được áp dụng cho vị trí khối u.
Hiện tại do những lo ngại về an toàn và chi phí thiết bị, xạ trị thường chỉ được cung cấp tại một số trung tâm y tế hoặc bệnh viện lớn.
Còn ở bức xạ bên trong hoặc thiết bị cấy ghép phóng xạ đến từ một viên nang chứa chất phóng xạ được đặt trực tiếp vào cổ tử cung. Trong đó thiết bị cấy ghép phóng xạ đặt các tia diệt ung thư gần với khối u trong khi loại bỏ hầu hết các mô khỏe mạnh xung quanh nó.
Hiện có hai loại cấy ghép phóng xạ, còn được gọi là xạ trị. Với liệu pháp xạ trị liều thấp, cấy ghép phóng xạ thường được đặt tại chỗ trong một đến ba ngày. Sau đó việc điều trị có thể được lặp lại nhiều lần trong suốt 1-2 tuần. Vì vậy bạn phải ở lại bệnh viện trong khi cấy ghép phóng xạ được thực hiện.
Một loại khác là xạ trị liều cao. Hình thức này có thể được thực hiện như ở bệnh nhân ngoại trú. Trong quá trình điều trị này, cấy ghép phóng xạ được chèn trong vài phút sau đó loại bỏ. Và liệu pháp này được thực hiện nhiều lần trong một loạt tuần, mỗi lần điều trị thường cách nhau ít nhất một tuần.
Hóa trị
là điều trị sử dụng các loại thuốc mạnh để tiêu diệt tế bào ung thư. Trong ung thư cổ tử cung, nó được sử dụng thường xuyên nhất khi ung thư tiến triển cục bộ hoặc đã lan sang các bộ phận khác của cơ thể. Thông thường điều trị có thể là một loại thuốc hoặc kết hợp các loại thuốc. Trong đó thuốc chống ung thư được sử dụng để điều trị ung thư cổ tử cung có thể được cung cấp qua đường IV hoặc bằng đường uống. Và cho dù bằng cách nào, hóa trị vẫn là điều trị toàn thân, nghĩa là thuốc chảy trong máu đi qua cơ thể. Từ đó chúng có thể tiêu diệt tế bào ung thư ở bất cứ đâu trong cơ thể.Cho đến nay hóa trị được đưa ra theo chu kỳ: mỗi chu kỳ bao gồm một giai đoạn điều trị tích cực theo sau là một giai đoạn phục hồi. Điều trị thường bao gồm một số chu kỳ. Hầu hết bệnh nhân được hóa trị đều là bệnh nhân ngoại trú (truyền thuốc tại phòng khám ngoại trú tại bệnh viện, tại văn phòng của bác sĩ hoặc tại nhà). Tuy nhiên, tùy thuộc vào loại thuốc được cung cấp và sức khỏe chung của người bệnh, tuy nhiên, người bệnh có thể cần phải ở lại bệnh viện trong quá trình điều trị.
Điều trị ung thư cổ tử cung xâm lấn thường liên quan đến một nhóm các chuyên gia. Thông thường nhóm nghiên cứu bao gồm bác sĩ phụ khoa, bác sĩ ung thư và bác sĩ ung thư bức xạ. Những bác sĩ này có thể quyết định sử dụng một phương pháp điều trị hoặc kết hợp các phương pháp. Sau đó bạn có thể chọn tham gia một thử nghiệm lâm sàng (nghiên cứu) để đánh giá các phương pháp điều trị mới. Đối với những nghiên cứu như vậy được thiết kế giúp cải thiện điều trị ung thư. Tuy nhiên việc tham gia vào một thử nghiệm lâm sàng có thể đem lại cả lợi ích và rủi ro.
Chăm sóc tại nhà cho bệnh ung thư cổ tử cung
Những thay đổi lối sống có thể giúp bạn mạnh mẽ và thoải mái hơn trong quá trình điều trị
Thực tế việc tự điều trị không thích hợp cho bệnh ung thư. Nếu không được điều trị y tế, ung thư cổ tử cung sẽ tiếp tục phát triển và lan rộng. Cuối cùng, các cơ quan quan trọng của cơ thể sẽ không thể hoạt động bình thường, bởi vì ung thư sẽ lấy oxy và chất dinh dưỡng của các cơ quan này, đẩy chúng ra ngoài hoặc làm chúng bị thương. Kết quả là tử vong thường xuyên xảy ra.
Mặc dù tự điều trị là không phù hợp, nhưng có những điều người bệnh có thể làm để giảm căng thẳng về thể chất và tinh thần của ung thư cổ tử cung cũng như từ cách điều trị.
Ngoài ra việc duy trì dinh dưỡng tốt là một trong những điều hữu ích nhất mà bạn có thể làm. Bởi vì bạn có thể mất cảm giác ngon miệng trong khi điều trị ung thư cổ tử cung. Cho đến nay tác dụng phụ thường gặp của hóa trị liệu bao gồm buồn nôn, nôn và lở loét bên trong miệng.
Tuy nhiên, nếu người bệnh nạp đủ lượng calo và protein, họ sẽ duy trì sức mạnh và mức độ chịu đựng tốt hơn do các tác dụng phụ của điều trị gây ra. Không những thế chuyên gia ung thư (bác sĩ ung thư) hoặc bác sĩ phụ khoa có thể đề nghị người bệnh nên có một chuyên gia dinh dưỡng để cung cấp các đề xuất giúp duy trì lượng calo và protein của họ.
Sau đây là những thay đổi lối sống có thể giúp bạn mạnh mẽ và thoải mái hơn trong quá trình điều trị, bao gồm:
- Tham gia vào các hoạt động thể chất nhẹ để theo kịp mức năng lượng của người bệnh. Hãy chắc chắn rằng nó không làm họ kiệt sức.
- Nghỉ ngơi đầy đủ vào ban đêm, và ngủ trưa nếu cần thiết.
- Bỏ thuốc lá.
- Tránh uống rượu. Bạn có thể không được uống rượu với một số loại thuốc bạn đang dùng. Và hãy chắc chắn để hỏi nhà cung cấp chăm sóc sức khỏe của bạn.
Theo dõi sau điều trị ung thư cổ tử cung
Khám phụ khoa thường xuyên và xét nghiệm Pap là rất quan trọng đối với mọi phụ nữ. Nhưng đối với một phụ nữ đã từng được điều trị giai đoạn tiền ung thư hoặc ung thư cổ tử cung thì chúng càng quan trọng hơn nữa.
Ngoài ra người bệnh nên được chăm sóc theo dõi bao gồm khám phụ khoa đầy đủ, xét nghiệm Pap và các xét nghiệm khác theo chỉ định trong một lịch trình thường xuyên được đề nghị bởi bác sĩ phụ khoa. Bên cạnh đó những biện pháp phòng ngừa này là cần thiết giúp phát hiện sớm nếu ung thư quay trở lại.
Tuy nhiên đều trị ung thư cổ tử cung có thể gây ra tác dụng phụ nhiều năm sau đó. Vì lý do này, bạn nên tiếp tục kiểm tra thường xuyên và báo cáo bất kỳ vấn đề sức khỏe nào xuất hiện.
Phòng chống ung thư cổ tử cung
Xét nghiệm Pap để kiểm tra ung thư cổ tử cung
Chìa khóa để ngăn ngừa ung thư cổ tử cung xâm lấn là phát hiện sớm bất kỳ thay đổi của tế bào nào, trước khi chúng trở thành ung thư. Kiểm tra vùng chậu thường xuyên và xét nghiệm Pap là cách tốt nhất để làm điều này. Trong đó tần suất bạn nên đi khám phụ khoa và xét nghiệm Pap tùy thuộc vào tình huống cá nhân của người bệnh, sau đây là hướng dẫn:
- Hãy chắc chắn rằng bạn được xét nghiệm Pap để kiểm tra ung thư cổ tử cung cứ sau 3 năm nếu bạn từ 21 tuổi trở lên.
- Nếu bạn ở độ tuổi 30-65, bạn có thể thực hiện cả xét nghiệm Pap và xét nghiệm papillomavirus ở người (HPV - Human papillomavirus) cứ sau 5 năm. Ngoài ra, bạn có thể dừng xét nghiệm nếu bác sĩ nói rằng bạn có nguy cơ thấp.
- Theo các hướng dẫn, tất cả trường hợp trong mọi lứa tuổi đã phẫu thuật cắt tử cung (bằng cách cắt bỏ cổ tử cung) và không có tiền sử ung thư cổ tử cung hoặc tiền ung thư.
- Nếu bạn hoạt động tình dục và có nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STD - Sexually transmitted diseases) cao hơn, hãy đi xét nghiệm bệnh chlamydia, lậu và giang mai hàng năm. Cũng như làm xét nghiệm HIV ít nhất một lần, thường xuyên hơn nếu bạn có nguy cơ.
Không những thế, việc tránh nhiễm trùng HPV cũng rất quan trọng trong việc ngăn ngừa các thay đổi trong giai đoạn tiền ung thư và ung thư cổ tử cung. Sau đây là các biện pháp phòng ngừa bao gồm:
- Kiêng quan hệ tình dục được khuyến cáo là một cách để ngăn ngừa lây truyền vi-rút.
- Tương tự như vậy, sử dụng những sản phẩm bảo vệ, chẳng hạn như sử dụng bao cao su, có thể làm giảm nguy cơ nhiễm trùng HPV, mặc dù điều này vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ.
- Vắc-xin giúp bảo vệ phụ nữ khỏi ung thư cổ tử cung và nam giới khỏi vi-rút hiện có sẵn, bao gồm:
- Gardasil được chấp thuận sử dụng cho nam và nữ từ 9 đến 26 tuổi. Loại vắc - xin này giúp bảo vệ chống lại hai chủng HPV (loại 16 và 18) chiếm đến 70% sự phát triển của ung thư cổ tử cung và hơn 50% các tổn thương tiền ung thư cổ tử cung, âm hộ và âm đạo. Ngoài ra Gardasil còn bảo vệ chống lại các loại HPV (6 và 11) có liên quan đến hơn 90% các trường hợp bị mụn cóc ở bộ phận sinh dục.
- Con đối với Gardasil 9 cũng có thể được sử dụng ở nam và nữ từ 9 đến 26 tuổi. Nó ngăn ngừa nhiễm trùng bởi các loại vi-rút giống như Gardasil cộng với HPV-31, HPV-33, HPV-45, HPV-52 và HPV-58. Nói chung, các loại này có liên quan đến 90% bệnh ung thư cổ tử cung.
Hút thuốc lá là một yếu tố nguy cơ của ung thư cổ tử cung có thể được ngăn chặn. Vì vậy hãy bỏ hút thuốc để có thể làm giảm cơ hội phát triển bệnh.
Triển vọng cho ung thư cổ tử cung
Đối với ung thư cổ tử cung, tỷ lệ sống sót là gần 100% khi những thay đổi ung thư tiền ung thư hoặc sớm được tìm thấy và điều trị. Thông thường tiên lượng cho ung thư cổ tử cung xâm lấn phụ thuộc vào giai đoạn của ung thư khi nó được tìm thấy.
Hiện tại giai đoạn của bệnh ung thư là thước đo cho thấy nó đã tiến triển bao xa, cụ thể là những cơ quan hoặc mô khác nào đã bị xâm chiếm.
- Đối với giai đoạn sớm nhất của ung thư cổ tử cung (giai đoạn 0), hơn 90% phụ nữ sống sót ít nhất 5 năm sau khi chẩn đoán
- Bệnh nhân ung thư cổ tử cung giai đoạn I có tỷ lệ sống sót sau 5 năm là 80 - 93%.
- Phụ nữ bị ung thư cổ tử cung giai đoạn II có tỷ lệ sống sót sau 5 năm là 58 - 63%.
- Tỷ lệ sống sót của phụ nữ bị ung thư cổ tử cung giai đoạn III là từ 32 - 35%
- 16% hoặc ít hơn đối với phụ nữ bị ung thư cổ tử cung giai đoạn IV sống sót sau 5 năm.
Hiện nay các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe điều trị ung thư thường sử dụng thuật ngữ "thuyên giảm" thay vì "chữa bệnh". Mặc dù nhiều phụ nữ bị ung thư cổ tử cung đã được phục hồi hoàn toàn, nhưng các chuyên gia y tế đôi khi vẫn tránh từ "chữa khỏi" vì bệnh có thể tái phát.
Nhóm hỗ trợ và tư vấn cho bệnh ung thư cổ tử cung
Các nhóm hỗ trợ của những người bị ung thư có thể có sẵn thông qua trung tâm y tế nơi bạn đang điều trị
Việc phải sống với ung thư cổ tử cung đưa ra nhiều thách thức mới cho bạn, gia đình và bạn bè.
- Chắc chắn bạn sẽ có nhiều lo lắng về việc ung thư sẽ ảnh hưởng đến bạn như thế nào và khả năng "sống một cuộc sống bình thường", nghĩa là chăm sóc gia đình, công việc và tiếp tục các mối quan hệ bạn bè cũng như các hoạt động bạn thích.
- Nhiều người cảm thấy lo lắng và chán nản. Không những thế một số người còn cảm thấy tức giận và bực bội; còn những người khác cảm thấy bất lực và bị đánh bại.
Đối với hầu hết những người bị ung thư, việc nói về cảm xúc và mối quan tâm của họ có thể giúp ích.
- Bạn bè và thành viên gia đình của bạn có thể rất ủng hộ. Mặc dù ban đầu họ có thể do dự để cung cấp hỗ trợ cho đến khi họ thấy cách bạn đối phó. Đừng chờ đợi họ giúp bạn. Nếu bạn muốn nói về mối quan tâm của bạn, hãy cho họ biết.
- Một số người không người thân phải "gánh" lấy họ, nên họ có thể chia sẻ những điều họ lo lắng với một chuyên gia, điều này trung lập hơn. Trong đó một nhân viên xã hội, cố vấn hoặc thành viên của giáo sĩ có thể hữu ích nếu bạn muốn thảo luận về cảm xúc và mối quan tâm của bạn về việc bị ung thư. Ngoài ra, bác sĩ phụ khoa hoặc bác sĩ ung thư có thể sẽ giới thiệu ai đó.
- Nhiều người bị ung thư được giúp đỡ sâu sắc bằng cách nói chuyện với những người đã từng bị ung thư. Việc chia sẻ mối quan tâm của bạn với những người khác đã trải qua điều tương tự có thể đem đến cho bạn sự an tâm. Hiện tại các nhóm hỗ trợ của những người bị ung thư có thể có sẵn thông qua trung tâm y tế nơi bạn đang điều trị.