U Hạt Bẹn
U hạt bẹn là bệnh gì?
U hạt bẹn là một căn bệnh lây nhiễm qua đường tình dục (STDs). Bệnh thường gây tổn thương cho các cơ quan sinh dục, bẹn và vùng háng. Đây là bệnh khá phổ biến ở những vùng nhiệt đới và những nước đang phát triển. Tuy nhiên, nếu căn bệnh này không được điều trị kịp thời, các cơ quan sinh dục, bẹn và vùng háng sẽ bị tổn thưởng.
Hầu hết u hạt bẹn thường xảy ra ở những người từ 20 đến 40 tuổi và nam giới có khả năng mắc bệnh cao gấp 2 lần nữ giới. Căn bệnh này hiếm khi xảy ra ở trẻ em hoặc người già. Bên cạnh đó mọi người có thể hạn chế khả năng mắc bệnh bằng cách giảm thiểu các yếu tố nguy cơ.
Nguyên nhân gây ra u hạt bẹn là gì?
Hiện tại, nguyên nhân chính gây ra u hạt bẹn là do vi khuẩn tên là Calymmatobacterium granulomatis và chủ yếu lây lan qua âm đạo hoặc hậu môn khi giao hợp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, bệnh cũng có thể lây khi quan hệ bằng miệng nhưng trường hợp này rất hiếm.
Sau đây là các yếu tố có thể làm tăng nguy cơ mắc u hạt bẹn bao gồm:
- Thường xuyên quan hệ tình dục không an toàn.
- Quan hệ tình dục đồng giới nam do tỷ lệ nam giới bị u hạt bẹn cao hơn hẳn so với nữ giới.
Những triệu chứng của u hạt bẹn là gì?
Thông thường sau khi tiếp xúc với người mắc bệnh, thì phải mất 1 đến 12 tuần bệnh mới xuất hiện. U hạt bẹn thường là những bướu nhỏ, phồng lên và có màu đỏ xuất hiện ở dương vật, âm hộ, vùng háng. Những bướu này thường không gây đau. Tuy nhiên, khi bướu lớn dần và bể ra (loét), những vùng này trở nên sẫm đỏ và để lại sẹo. Trong một số trường hợp, da sẽ bị mất màu ở bộ phận sinh dục hoặc các vùng lận cận.
Những kỹ thuật y tế dùng để chẩn đoán u hạt bẹn là gì?
Cho đến nay, để chẩn đoán căn bệnh này, bác sĩ sẽ dựa trên các triệu chứng mà bệnh nhân đang gặp phải. Trong đó phương pháp sinh thiết sẽ được thực hiện nhằm tìm ra vi khuẩn gây bệnh. Ngoài ra, xét nghiệm về các bệnh lây qua đường tình dục khác cũng sẽ được thực hiện để việc chẩn đoán được chính xác hơn.
Những phương pháp dùng để điều trị u hạt bẹn là gì?
Hiện tại để điều trị căn bệnh này, bác sĩ sẽ dùng đến thuốc kháng sinh như doxycycline, ciprofloxacin, hay azithromycin trong thời gian dài (ít nhất là 3 tuần) cho đến khi vết thương lành hẳn. Đối với những vùng viêm nhiễm nên được vệ sinh sạch sẽ và khô ráo. Khi đó bác sĩ sẽ khuyên người bệnh tạm ngưng quan hệ cho đến khi quá trình điều trị kết thúc. Sau khi chữa khỏi bệnh, người bệnh cũng nên tái khám thường xuyên để ngăn ngừa nguy cơ tái phát.
Bên cạnh đó người bệnh có thể kiểm soát tốt tình trạng bệnh của mình nếu chú ý vài điều dưới đây:
- Nghe theo hướng dẫn của bác sĩ, không được tự ý uống thuốc không được chỉ định hoặc tự ý bỏ thuốc trong toa được kê toa.
- Tái khám đúng lịch hẹn để được theo dõi diễn tiến các triệu chứng cũng như tình trạng sức khỏe.
- Quan hệ tình dục an toàn bằng cách sử dụng bao cao su.
- Không quan hệ tình dục với người không rõ tình trạng sức khỏe.
- Luôn giữ vết thương sạch và khô.