Tỷ lệ tử vong ở Mỹ ngày càng tăng cao do khả năng tiếp cận kém hiệu quả với trung tâm cấp cứu

Tỷ lệ tử vong ở Mỹ ngày càng tăng cao do khả năng tiếp cận kém hiệu quả với trung tâm cấp cứu

Hiện nay một số tiểu bang trên toàn nước Mỹ có khả năng tiếp cận kém với trung tâm cấp cứu có thể dẫn đến tỷ lệ tử vong cao trước khi bệnh nhân được đến bệnh viện, so với một số tiểu bang có sự liên kết tốt hơn. Ngoài ra, tỷ lệ cho thấy số bệnh nhân tử vong do sự tiếp cận kém với trung tâm cấp cứu ngày càng tăng cao, theo kết quả nghiên cứu mới được trình bày tại Hội nghị phẫu thuật lâm sàng tại Mỹ năm 2018. Nhìn chung, hơn một nửa (28 bang) tiểu bang có tỷ lệ tử vong chỉ ở mức trung bình, từ các báo cáo của nhà nghiên cứu từ Bệnh viện phụ sản Brigham, Boston.

"Các nhà nghiên cứu cho biết nếu thời gian vận chuyển được diễn ra nhanh hơn đến một trung tâm cấp cứu có thể giảm đi tình trạng tử vong và có thể cứu được người bệnh, nhưng đôi lúc các nhà nghiên cứu không thể xác định được về những khả năng bất khả kháng có thể xảy ra trong quá trình tiếp cận trung tâm cấp cứu trong khu vực", Zain G. Hashmi, MD (Medical Doctor - bác sĩ y khoa), người tham gia các cuộc nghiên cứu với tư cách là một nghiên cứu viên tại Bệnh Viện Phụ Sản Brigham. Và hiện là bác sĩ phẫu thuật tại Bệnh viện Sinai, Baltimore. "Mặc dù tỷ lệ tử vong tại bệnh viện từ các chấn thương nặng có sự suy giảm rõ rệt từ năm 1970, tuy nhiên các nghiên cứu gần đây cho thấy đã có rất ít sự tập trung trong việc cải thiện tỷ lệ tử vong tại bệnh viện do chấn thương được quan tâm mạnh mẽ ở toàn đất nước".

Thực tế cho thấy nếu các ca cấp cứu được vận chuyển kịp thời vào trung tâm cấp cứu là rất quan trọng vì khi đó các bác sĩ "Có thể ngăn chặn được tình trạng tử vong sau chấn thương", được đề xuất trong báo cáo năm 2016 của Viện Hàn lâm Khoa học, Kỹ thuật và Y học Quốc gia (NASEM) và được Đại học Surgeons của Mỹ bảo trợ. Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh (CDC), chấn thương là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở Mỹ xuất hiện ở độ tuổi dưới 45 tuổi, và dẫn đến 214.000 trường hợp tử vong do chấn thương mỗi năm.

Dưới sự hướng dẫn của điều tra viên cấp cao Adil H. Haider, (Medical Doctor - bác sĩ y khoa), MPH, FACS, Tiến sĩ Hashmi và các đồng nghiệp đã tìm cách thu thập thêm thông tin về "hộp đen lớn" ghi nhận những ca chăm sóc hoặc lịch sử chấn thương. Nhóm của ông đã phân tích 1,95 triệu trường hợp tử vong do chấn thương ở độ tuổi từ 15 tuổi trở lên, báo cáo với CDC từ năm 1999 đến năm 2016, trên toàn quốc và tiểu bang. Hạn chế chấn thương như các chấn thương từ vật thể cùn (chẳng hạn như bị ngã, va chạm với xe cộ, hoặc tấn công bằng vật thể cùn) và thương tích bị xuyên thủng (vết thương và đạn, vết thương,...), ngoài ra các nhà điều tra đã loại trừ trường hợp tử vong do chết đuối, bỏng và các nguyên nhân khác.

Các nhà nghiên cứu đã so sánh tần suất tử vong xảy ra tại bệnh viện so với những người trường hợp tử vong khác. Khi đó các nhà nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu được ghi chép lại trước đây, và khi đó họ có thể tính tỷ lệ dân số của mỗi bang được tiếp cận kịp thời vào trung tâm cấp cứu cấp I hoặc cấp II, các trung tâm này được trang bị nhiều trang thiết bị hiện đại và cung cấp dịch vụ chăm sóc 24 giờ cho bệnh nhân bị nhiều chấn thương nặng và có thể bị đe dọa tính mạng. Không những thế nghiên cứu trên có thể đo lường được thời gian các trường hợp bị chấn thương được tiếp cận kịp thời vào trung tâm cấp cứu bằng các phương tiện vận tải hoặc bằng máy bay trong vòng 45 phút sau chấn thương và trong "giờ vàng" được thấy là phổ biến hơn, và khoảng thời gian giới hạn cho phép để nhận một bệnh nhân chấn thương và được chăm sóc tận tình trong vòng một giờ sau khi chấn thương có thể để có thể tăng khả năng cơ hội sống sót tốt nhất trước khi những phản ứng gây sốc cơ thể hoặc gây ra các tổn thương cho các cơ quan khác của cơ thể.

Để ước tính khả năng tiếp cận và gần với trung tâm cấp cứu, nhóm nghiên cứu đã phát triển một số liệu mới gọi là prehospital: tỷ lệ tử vong tại bệnh viện (PH: IH), và nhóm nhà nghiên cứu có thể tính được tỷ lệ trên như sau: số ca tử vong do chấn thương chia cho số ca tử vong chấn thương tại bệnh viện. Các tiểu bang có tỷ lệ PH: IH cao hơn mức trung bình và tỷ lệ tử vong được điều chỉnh theo độ tuổi nhận được sự phân loại "Tỷ lệ tử vong ngày càng tăng cao".

Nhìn chung, tỷ lệ tử vong do chấn thương nặng xảy ra trước khi bệnh viện đến chiếm khoảng 49%, so với 42% tỷ lệ tử vong tại bệnh viện, theo tóm tắt nghiên cứu cho biết. Ngoài ra 9% còn lại là trường hợp khi vừa đến trung tâm cấp cứu và tử vong, có nhiều trường hợp khác mà các nhà nghiên cứu loại trừ khỏi phân tích.) Tỷ lệ PH: IH cho thấy trung bình trên toàn quốc là 1,18 và tỷ lệ tử vong ở độ tuổi trung bình là 44,4 trên 100.000 dân số dựa trên dữ liệu điều tra dân số của Hoa Kỳ.

Một hiệp hội tồn tại giữa các Bang nhận thấy tỷ lệ tử vong ngày càng tăng cao do khả năng tiếp cận kém với trung tâm cấp cứu và tỷ lệ trên có thể giảm đi nếu bệnh nhân được cấp cứu kịp thời trong vòng 1 giờ tại các trung tâm cấp cứu cấp I hoặc II, Tiến sĩ Hashmi cho biết. Hiện nay chỉ có 63,2% dân số ở các bang có thể được cấp cứu kịp thời tại bệnh viện so với 90,2% tỷ lệ không thể tiếp cận trung tâm cấp cứu trong số các tiểu bang còn lại.

Nếu tất cả các tiểu bang có cùng tỷ lệ PH: IH thì tỷ lệ tử vong do chấn thương sẽ giảm đi đáng kể tuy nhiên số liệu cho thấy chỉ có khoảng 1/4 tiểu bang trên toàn nước Mỹ có thể có khả năng tiếp cận các trung tâm câp cứu kịp thời và có thể ngăn chặn được 7.601 ca tử vong do chấn thương sọ não mỗi năm, các nhà nghiên cứu ước tính.

28 tiểu bang được xác định là có tỷ lệ tử vong tiền sử cao là Alabama, Alaska, Arizona, Arkansas, Colorado, Florida, Georgia, Idaho, Indiana, Kansas, Kentucky, Louisiana, Mississippi, Missouri, Montana, Nevada, New Mexico, Bắc Carolina, Bắc Dakota, Oklahoma, Oregon, Nam Carolina, Nam Dakota, Texas, Utah, Tây Virginia, Wisconsin và Wyoming.

Lý do tại sao các bang này có tỷ lệ tử vong cao hơn trước khi đến bệnh viện là không rõ nhưng có khả năng sẽ thay đổi, Tiến sĩ Hashmi nói.

Điều tra viên cao cấp Tiến sĩ Haider cho biết hai chủ đề chính xuất hiện từ nghiên cứu này. Ngoài ra, để thực hiện những cải tiến này, chúng tôi cần nhiều dữ liệu chi tiết hơn, và những tính hiệu khả quan từ những phục hồi thương tích như phục hồi chức năng”, ông nói. "Đó là nơi chúng tôi có thể tạo ra các tác động mạnh trong việc cứu mạng sống và đảm bảo kết quả phục hồi chức năng hiệu quả sau khi bị thương."

Các nhà nghiên cứu khuyến cáo rằng tại các bang có tỷ lệ tử vong cao trước khi cải thiện khả năng tiếp cận và chăm sóc bệnh nhân, chẳng hạn như rút ngắn thời gian vận chuyển của bệnh nhân, tối ưu hóa vị trí trung tâm cấp cứu hay cải thiện chất lượng chăm sóc trước khi điều trị.

Họ cũng đồng ý với đề nghị NASEM về các thiết lập kho dữ liệu chấn thương tích hợp của quốc gia có thể theo dõi tình trạng của bệnh nhân trong việc điều trị và chăm sóc chấn thương, bao gồm dữ liệu tiền sử bệnh viện và nỗ lực của Ủy ban ACS về chấn thương. Những nỗ lực này bao gồm việc thiết lập một hệ thống chấn thương quốc gia liên kết dữ liệu trong suốt quá trình điều trị, chăm sóc chấn thương, từ giai đoạn cấp cứu kịp thời đến giai đoạn phục hồi chức năng. Tuy nhiên nhiều tiểu bang bị ảnh hưởng bởi vấn đề này có do tỷ lệ dân số nông thôn ngày càng tăng cao, một giải pháp đổi mới để tối ưu hóa việc tiếp cận chăm sóc trong một hệ thống chấn thương toàn diện với lịch sử chăm sóc được đảm bảo ở chất lượng cao sẽ là rất quan trọng.

Các câu hỏi liên quan

Xin mời nói. Bạn muốn tìm gì ...