Triệu chứng của bệnh sán lá phổi theo từng giai đoạn

Triệu chứng của bệnh sán lá phổi theo từng giai đoạn

Bệnh sán lá phổi do Paragonimus vvestermam gây thành dịch ở một sô quốc gia châu Á như Trung Quôc, Đài Loan, Triều Tiên, Nhật Bản, quần đảo Philippines; ít gặp ở Tây Phi, Trung và Nam Mỹ. Khu vực Đông Dương hay gặp ở Lào, vùng núi phía Bắc Việt Nam... là những nơi có tập quán ăn gỏi cua, tôm. Bệnh sán lá phối do P.kellicotti gặp ở một số vùng tại Hoa Kỳ.

Người mắc bệnh do ăn cua, tôm nước ngọt sống, ướp muối hoặc ngâm rượu. Những con vật này đã nhiễm sán ở giai đoạn ấu trùng nang. Khi vào tới hành tá tràng, ấu trùng phát triển
từ kén thâm nhập qua thành ruột vào khoang màng bụng. Phần lớn ấu trùng sẽ xuyên qua cơ hoành thâm nhập vào nhu mô phối, chỉ có một số ít đi đến các cơ quan ngoài phổi. Tiếp theo, sẽ xuất hiện tổn thương phổi dạng thâm nhiễm bạch cầu ái toan và đa nhân trung tính, cuối cùng là bạch cầu mono ở nhu mô phổi xung quanh ấu trùng. Nhu mô phổi bị hoại tử cục bộ dẫn đến sự hình thành vỏ xơ xung quanh con sán trưỏng thành. Khoảng 7-8 tuần sau khi nhiễm ấu trùng sán, con sán trưởng thành hoàn toàn và bắt đầu đẻ trứng bên trong nang. Nang sán to dần và bị vỡ, thường vỡ vào phế quản nhỏ, bài tiết trứng sán ra ngoài theo đờm.

Triệu chứng và chẩn đoán

Triệu chứng của bệnh khác nhau tùy thuộc giai đoạn của bệnh.

1. Giai đoạn nhiễm trùng sớm

Giai đoạn nhiễm trùng sớm (giai đoạn từ khi kén xâm nhập vào cơ thể cho tới khi sán trưởng thành bắt đầu đẻ trứng):

  • Thời kỳ ấu trùng xâm nhập vào khoang ổ bụng: một số bệnh nhân có triệu chứng đau bụng hoặc nóng rát thượng vị.
  • Thời kỳ ấu trùng xuyên qua cơ hoành và xâm nhập vào khoang màng phổi, thường cả hai bên: xuất hiện các triệu chứng của viêm màng phổi. X quang lồng ngực thời kỳ này (khoảng 1 tháng sau nhiễm trùng) có thể thấv tràn khí hoặc tràn dịch màng phổi (là dịch tiết chứa nhiều bạch cầu ái toan).
  • Thời kỳ ấu trùng xầm nhập vào nhu mô phổi: ho nhiều, đau ngực, mệt mỏi, sốt nhẹ, khạc đờm dính máu; X quang lồng ngực xuất hiện những thâm nhiễm mờ nhạt; bạch cầu trong máu tăng, bạch cầu ái toan tăng. Do đó bệnh cảnh giống với hội chứng Loeffler.

Chẩn đoán bệnh ở giai đoạn trước khi sán đẻ trứng rất khó, dựa vào lâm sàng, tăng bạch cầu ái toan máu và tiền sử phơi nhiễm khi người bệnh sống ở vùng có dịch.

2. Giai đoạn nhiễm trùng muộn

Giai đoạn nhiễm trùng muộn (Giai đoạn hai): là giai đoạn sán ký sinh ở phổi, có thể kéo dài tới hàng chục năm cho tới khi sán chết.

Triệu chứng: ở giai đoạn này chủ yếu là khái huyết tái diễn. Máu thường có màu chocolat, bao gồm máu tươi, tế bào viêm, trứng sán. Ngoài ra, bệnh nhân thấy mệt mỏi, đôi khi có
sốt...; nhưng vẫn sinh hoạt, lao động bình thường mặc dù ho máu tái diễn từng đợt.

  • Bạch cầu ái toan trong máu tăng ít hoặc không tăng.
  • X quang lồng ngực bình thường ở 20% trường hợp, nhưng thường thấy có các triệu chứng của nang sán hoặc ở một hoặc nhiều vị trí. Trên phim thẳng hoặc phim cắt lớp vi tính thấy bóng mờ hình nhẫn, rất ít gặp mức khí-nước. Hình ảnh tia mờ ở bên cạnh hình nhẫn (hình ảnh các ngách của nang). Các triệu chứng X quang có thể tự hấp thu và xuất hiện một tổn thương mới sau hàng tháng. Hình ảnh dày dính màng phổi có thể điển hình; đôi khi hình ảnh X quang nhầm với lao phổi. Tràn dịch màng phổi có thể không kèm theo tổn thương nhu mô. Ít gặp biến chứng rò màng phổi-phế quản.

Chẩn đoán:

  • Dựa vào tiền sử, ho máu tái diễn ở người sống trong vùng có dịch.
  • Chẩn đoán xác định dựa vào tìm thấy trứng sán trong đờm: lấy đờm trong 24 giờ sẽ làm tăng độ nhậy của test.
  • Có thể tìm thấy trứng trong phân do nuốt, đặc biệt có giá trị khi chẩn đoán bệnh ở trẻ em.

Ngoài ra, còn dựa vào test ELISA, test huyết thanh immunoblot, hút kim nhỏ qua thành ngực.

Điều trị

Praziquantel 25mg/ngày trong 2 ngày.

Các câu hỏi liên quan

Xin mời nói. Bạn muốn tìm gì ...