Tổng quan bệnh phổi kẽ
Bệnh phổi kẽ là một dạng chung bao gồm nhiều tình trạng phổi khác nhau. Tất cả các bệnh phổi này đều gây ảnh hưởng đến mô kẽ, đây là một phần cấu trúc giải phẫu của phổi.
Các mô kẽ là một mạng lưới mô giống tắm ren kéo dài khắp cả hai bên phổi. Trong đó các kẽ cung cấp hỗ trợ cho các túi khí siêu nhỏ của phổi (còn gọi là phế nang). Bên cạnh đó các mạch máu nhỏ di chuyển qua kẽ, cho phép trao đổi khí giữa máu và không khí trong phổi. Thông thường, các kẽ rất mỏng nên bạn sẽ không thể nhìn thấy chúng trên X-quang ngực hoặc chụp CT.
Các loại bệnh phổi kẽ
Hiện nay tất cả các dạng bệnh phổi kẽ xảy ra là do các kẽ bị dày lên. Và hiện tượng này có thể là do viêm, sẹo hoặc nhiều chất lỏng (phù) gây ra. Tuy nhiên một số dạng bệnh phổi kẽ chỉ xuất hiện trong thời gian ngắn; còn những dạng khác có thể là mãn tính và không thể thay đổi được.
Sau đây là một số dạng bệnh phổi kẽ bao gồm:
-Viêm phổi kẽ:
Vi khuẩn, vi rút hoặc nấm có thể lây nhiễm vào các kẽ của phổi. Trong đó một loại vi khuẩn có tên Mycoplasma pneumoniae là nguyên nhân phổ biến nhất.
- Xơ phổi vô căn:
Đây là một dạng xơ hóa mạn tính, chúng tiến triển từ xơ hóa (sẹo) của kẽ. Hiện tại nguyên nhân gây ra dạng bệnh này vẫn chưa được xác định.
- Viêm phổi kẽ không đặc hiệu:
Bệnh phổi kẽ thường xuất hiện với các tình trạng tự miễn (như viêm khớp dạng thấp hoặc xơ cứng bì).
- Viêm phổi mẫn cảm:
Đây là dạng bệnh phổi kẽ do hít phải bụi, nấm mốc hoặc các chất kích thích khác.
- Viêm phổi tổ chức hóa vô căn (Cryptogenic organizing pneumonia - COP):
Đây là một dạng bệnh phổi kẽ tương tự như viêm phổi nhưng không có nhiễm trùng. Ngoài ra, COP còn được gọi là Viêm tắc tiểu phế quản kết hợp với viêm phổi tổ chức hóa (Bronchiolitis obliterans with organizing pneumonia - BOOP).
- Viêm phổi kẽ cấp tính:
Đây là một dạng bệnh phổi kẽ đột ngột, nghiêm trọng, thường cần thiết bị duy trì sự sống.
- Viêm phổi kẽ bong vảy (Desquamative Interstitial Pneumonia – DIP):
Đây là một dạng bệnh phổi kẽ được gây ra một phần bởi hút thuốc.
- Bệnh Sarcoidosis:
Đây là một tình trạng gây ra bệnh phổi kẽ cùng với các hạch bạch huyết bị sưng, và đôi khi có liên quan đến tim, da, thần kinh hoặc mắt.
- Bệnh bụi phổi amiăng:
Đây là dạng bệnh phổi kẽ do phơi nhiễm amiăng gây ra.
Nguyên nhân gây bệnh phổi kẽ
Vi khuẩn, vi rút và nấm được biết là nguyên nhân gây ra viêm phổi kẽ. Ngoài ra việc tiếp xúc thường xuyên với chất kích thích hít phải tại nơi làm việc hoặc do sở thích cũng có thể gây ra một số bệnh phổi kẽ. Những chất kích thích này bao gồm:
- Amiăng.
- Bụi silic.
- Talc.
- Bụi than, hoặc các loại bụi kim loại khác từ hoạt động khai thác.
- Bụi hạt từ nông nghiệp.
- Protein chim (như từ những loại chim kỳ lạ, gà hoặc chim bồ câu).
Bên cạnh đó các loại thuốc như nitrofurantoin, amiodarone, bleomycin và nhiều loại khác cũng có thể gây ra bệnh phổi kẽ.
Nhìn chung, những yếu tố này chỉ gây ra một tỷ lệ nhỏ dẫn đến bệnh phổi kẽ. Tuy nhiên nguyên nhân của hầu hết các bệnh phổi kẽ hiện tại vẫn chưa xác định rõ.
Nhưng ai có nguy cơ mắc bệnh phổi kẽ?
Cho đến nay bất cứ ai cũng có thể phát triển bệnh phổi kẽ. Trong đó đàn ông và phụ nữ ở mọi lứa tuổi đều có thể bị ảnh hưởng bởi căn bệnh này. Tuy nhiên đối với những người mắc bệnh tự miễn, bao gồm lupus, viêm khớp dạng thấp và xơ cứng bì có nhiều khả năng mắc các bệnh phổi kẽ hơn.
Triệu chứng của bệnh phổi kẽ
Triệu chứng phổ biến nhất của tất cả các dạng bệnh phổi kẽ là khó thở. Gần như tất cả những người mắc căn bệnh này sẽ bị khó thở, và tình trạng này có thể trở nên tồi tệ hơn theo thời gian.
Ngoài ra một số triệu chứng khác của bệnh phổi kẽ bao gồm:
- Ho, miệng thường khô và không phát sinh.
- Giảm cân, xảy ra thường xuyên nhất ở những trường hợp bị viêm phổi tổ chức hóa vô căn (Cryptogenic organizing pneumonia - COP) hoặc viêm tắc tiểu phế quản kết hợp với viêm phổi tổ chức hóa (Bronchiolitis obliterans with organizing pneumonia - BOOP).
Trong hầu hết các dạng bệnh phổi kẽ, tình trạng khó thở thường phát triển chậm (qua nhiều tháng). Còn trong viêm phổi kẽ hoặc viêm phổi kẽ cấp tính, các triệu chứng thường xuất hiện nhanh hơn (trong vài giờ hoặc vài ngày).
Chẩn đoán bệnh phổi kẽ
Thông thường những người mắc bệnh phổi kẽ đến gặp bác sĩ là do họ lo lắng về tình trạng khó thở hoặc ho. Do đó các xét nghiệm hình ảnh của phổi thường được thực hiện để xác định vấn đề.
X-quang ngực:
Đây là xét nghiệm đầu tiên trong đánh giá của hầu hết những trường hợp có vấn đề về hô hấp. Khi đó kết quả X-quang ngực ở những người mắc bệnh phổi kẽ có thể cho thấy các nếp nhăn trong phổi.Chụp cắt lớp vi tính (CT scan):
Đây là thiết bị phát ra nhiều tia X ở ngực và máy tính sẽ tạo ra hình ảnh chi tiết của phổi cũng như các cấu trúc xung quanh chúng. Bệnh phổi kẽ thường có thể được nhìn thấy trên chụp CT.Chụp CT độ phân giải cao:
Nếu nghi ngờ bệnh phổi kẽ, việc thực hiện một số cài đặt cho máy chụp CT có thể cải thiện hình ảnh của kẽ. Điều này làm tăng khả năng của chụp CT trong việc phát hiện ra bệnh phổi kẽ.Kiểm tra chức năng phổi:
Kiểm tra này được thực hiện bằng cách người bệnh sẽ ngồi trong buồng nhựa kín và thở qua ống. Đối với những người mắc bệnh phổi kẽ tổng dung tích phổi của họ có thể bị giảm. Bên cạnh đó người bệnh cũng có thể bị giảm khả năng chuyển oxy từ phổi vào máu.Sinh thiết phổi:
Thông thường, việc lấy mô phổi để kiểm tra dưới kính hiển vi là cách duy nhất để xác định loại bệnh phổi kẽ. Tuy nhiên vẫn có một số cách để thu thập mô phổi (được gọi là sinh thiết phổi), chúng bao gồm:
- Nội soi phế quản: Kiểm tra này được tiến hành qua miệng hoặc mũi vào đường thở. Trong đó các công cụ nhỏ trên ống nội soi có thể lấy một mẫu của mô phổi.
- Phẫu thuật lồng ngực có video hỗ trợ (VATS - Video-assisted thoracoscopic surgery): Kỹ thuật này sử dụng các công cụ được đưa vào qua các vết mổ nhỏ, từ đó bác sĩ phẫu thuật có thể lấy mẫu nhiều vùng mô phổi.
- Sinh thiết phổi mở (lồng ngực): Trong một số trường hợp, phẫu thuật truyền thống với vết mổ lớn ở ngực là cần thiết để lấy sinh thiết phổi.
Phương pháp điều trị bệnh phổi kẽ
Hiện nay, phương pháp điều trị bệnh phổi kẽ thay đổi tùy thuộc vào dạng bệnh phổi kẽ và nguyên nhân của nó.
Kháng sinh. Đây được xem là phương pháp điều trị hiệu quả nhất cho hầu hết các bệnh viêm phổi kẽ. Trong đó, thuốc Azithromycin (Zithromax) và levofloxacin (Levaquin) giúp loại bỏ các vi khuẩn gây ra hầu hết các bệnh viêm phổi kẽ. Còn đối với viêm phổi do virus thường tự khỏi. Cho đến nay viêm phổi do nấm rất hiếm khi xảy ra, nhưng có thể được điều trị bằng thuốc chống nấm.
Corticosteroid. Trong một số dạng bệnh phổi kẽ, tình trạng viêm xảy ra liên tục trong phổi có thể gây ra tổn thương và sẹo. Vì thế các loại thuốc Corticosteroid như prednison và methylprednisolone có thể làm giảm hoạt động của hệ thống miễn dịch. Điều này làm giảm tình trạng viêm trong phổi và phần còn lại của cơ thể.
Máy tạo oxy. Ở những trường hợp có nồng độ oxy trong máu thấp do bệnh phổi kẽ, thì máy tạo oxy có thể cải thiện các triệu chứng. Bên cạnh đó việc sử dụng oxy thường xuyên cũng có thể bảo vệ tim khỏi bị tổn thương do nồng độ oxy thấp.
Ghép phổi. Bệnh phổi kẽ trong giai đoạn tiến triển, thường dẫn đến suy yếu nghiêm trọng, do đó ghép phổi có thể là lựa chọn tốt nhất. Hầu hết bệnh nhân (bị bệnh phổi kẽ) trải qua ghép phổi đều cải thiện được chất lượng cuộc sống và khả năng tập thể dục.
“Chất lượng cuộc sống là một thuật ngữ được sử dụng để đánh giá chung nhất về các mức độ tốt đẹp của cuộc sống đối với các cá nhân và trên phạm vi toàn xã hội cũng như đánh giá về mức độ thoải mái, hài lòng hoàn toàn về thể chất, tâm thần và xã hội”.
Azathioprine (Imuran). Loại thuốc này cũng giúp ức chế hệ thống miễn dịch. Nhưng nó chưa bao giờ được chứng minh có thể cải thiện bệnh phổi kẽ, nhưng một số nghiên cứu cho thấy nó có thể giúp ích.
N-acetylcystein (Mucomyst). Đây là một chất chống oxy hóa mạnh có thể làm chậm sự suy giảm chức năng phổi trong một số dạng bệnh phổi kẽ. Nhưng nó không nên được sử dụng tách biệt.
Sau đây là một số phương pháp điều trị khác còn gây nhiều tranh cãi trong điều trị bệnh phổi kẽ bao gồm:
- Cyclophosphamide (Cytoxan).
- Methotrexate.
- Cyclosporine.
- Pirfenidone (Exbriet).
- Nintedanib (OFEV).
Đây là những loại thuốc ức chế đáng kể hệ thống miễn dịch. Chúng có thể được sử dụng trong một số trường hợp bị bệnh phổi kẽ đang dõi tác dụng phụ.