Tìm hiểu về ung thư đại tràng
Ung thư đại tràng là gì?
Đại tràng là một phần của hệ tiêu hoá, chứa phân. Trực tràng là phần cuối cùng của đại tràng, nằm sát hậu môn. Đại tràng còn gọi là ruột già, là đoạn ruột có kích thước rộng, u đại tràng và trực tràng xuất phát từ thành trong của ruột già (đại tràng). Những khối u lành tính của đại tràng gọi là polyp.
Các khối u ác tính của ruột già gọi là ung thư. Các polyp lành tính không xâm lấn và lây sang mô kế cận hay những bộ phận khác của cơ thể. Polyp lành tính có thể dễ dàng cắt bó khi nội soi đại tràng, và không đe doạ tính mạng người bệnh. Nếu polyp lành tính không thể cắt bỏ được, thì nó có thể trở thành ác tính (ung thư hoá) theo thời gian. Nhiều ung thư đại tràng được cho là phát triển từ những polyp. Ung thư đại, trực tràng có thể xâm lấn và làm tổn thương các cơ quan lân cận.
Các tế bào ung thư cũng có thể tách ra và lan sang các bộ phận khác của cơ thê (như gan và phổi) tạo ra những khối u mới. Sự lan của ung thư đại tràng đến các cơ quan xa, được gọi là ung thư đại tràng di căn. Một khi ung thư đại, trực tràng đã di căn, thì việc điều trị sẽ không còn hiệu quả nữa.
Nói chung, ung thư đại, trực tràng là loại ung thư đứng hàng đầu ở nam, và đứng hàng thứ tư trong các loại ung thư ở nữ. Tần suất bị ung thư đại tràng thay đổi tùy theo vùng trên thế giới.
Ung thư đại tràng có tỷ lệ cao nhất ở các nước phát triển với chế độ ăn giàu chất dinh dưỡng, nhiều chất béo nhưng lại ít chất xơ. Theo thống kê năm 1997 ở Mỹ, ung thư đại tràng đứng hàng thứ hai sau ung thư phổi; cứ 4 phút lại phát hiện thêm 1 ca ung thư mới và cứ 10 phút lại có 1 bệnh nhân tử vong do ung thư đại tràng.
Yếu tố nguy cơ
Có 75% các ca ung thư đại tràng tìm thấy trong lứa tuổi trên 50 này; 20% các ca ung thư đại tràng có liên quan tới gia đình có người bị mắc bệnh này, và 1% liên quan tới những bệnh nhân bị viêm loét đại tràng.
Các triệu chứng lâm sàng của ung thư đại tràng thường xuất hiện muộn khi khối u đã quá to, gây ra triệu chứng bán tắc ruột hoặc táo bón, đau bụng, ỉa lỏng kéo dài, phân có lẫn máu mũi, gầy sút cân, thiếu máu. Trong một số trường hợp khối u nằm ở thấp, bệnh nhân lại có các triệu chứng đau quặn, mót rặn như hội chứng lỵ, nên chẩn đoán thường bị nhầm lẫn với bệnh lỵ hoặc trĩ.
Chụp Xquang có thể phát hiện những khối u lớn, nhưng lại luôn bỏ sót các khối u khi còn nhỏ, và cuối cùng vẫn phải nội soi đại tràng thì mới chẩn đoán xác định và khẳng định bản chất của khối u. Vì vậy, nội soi đại tràng ống mềm là phương pháp duy nhất để chẩn đoán ung thư đại tràng ngay từ giai đoạn sớm. Có 20% bệnh nhân ung thư đại tràng có di căn sang gan được chẩn đoán bằng siêu âm.
Điều trị
Ngoại khoa là phương pháp điều trị triệt để duy nhất, với việc cắt bỏ một phần đại tràng, và bóc hết các hạch di căn.
Sau phẫu thuật cắt bỏ một phần đại tràng, tất cả bệnh nhân đều được điều trị phối hợp hóa chất theo phác đồ đang được áp dụng rộng rãi hiện nay: 5-Fluouracile + calci Polinat trong vòng 6 tháng. Hàng tháng bệnh nhân chỉ vào nằm viện 5 ngày để truyền hóa chất. Phương pháp điều trị phối hợp ngoại khoa với hóa chất, đã làm tăng tuổi thọ của các bệnh nhân sau mổ. Một số triệu chứng có liên quan tới dùng hóa chất như giảm bạch cầu, buồn nôn, ỉa chảy có thể gặp, nhưng hiếm và không nặng.
Theo dõi sau mổ: Bệnh nhân phải nội soi kiểm tra sau 1 năm, nếu kết quả bình thường thì sau 3 năm và 5 năm mới phải soi lại.
Cách phòng bệnh và một số điều cần biết
Chế độ ăn nhiều chất xơ và giảm chất béo, tập thể dục thường xuyên sẽ làm giảm tỷ lệ mắc bệnh ung thư đại tràng. Gần đây, một số nghiên cứu cho thấy những người thường xuyên uống aspirin sẽ giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư đại tràng. Dùng sulindac (một thuốc chống viêm không có corticoid) với liều 300mg/ ngày cũng làm giám kích thước adenoma, và trong một số trường hợp còn làm biến mất các adenoma. Tuy nhiên, dùng sulindac phải cẩn thận, vì 2% trường hợp bệnh nhân dùng thuốc này có thể có biến chứng chảy máu dạ dày tá tràng.
Càn bệnh này đứng hàng thứ 3 về mức độ nguy hiểm trong các loại ung thư (sau ung thư vú và tuyến tiền liệt). Bệnh thường gặp ở người trên 50 tuổi, không có triệu chứng đặc hiệu. Khi các biểu hiện trở nên rõ ràng nghĩa là bệnh đã ở giai đoạn nặng.
Triệu chứng của ung thư đại tràng thường không đặc hiệu, tùy thuộc vào vị trí ung thư. Các biểu hiện thường gặp là đau bụng, thay đổi thói quen đi ngoài (táo bón hoặc tiêu chảy), đi tiểu ra máu, có cảm giác mót rặn sau khi đi tiểu, có biểu hiện thiếu máu... Cũng như các loại ung thư khác, bệnh ung thư đại tràng sẽ gây tử vong nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.
Để phát hiện sớm ung thư đại tràng, những người trên 50 tuổi nên đi thử phân mỗi năm để tìm máu ẩn trong phân. Nếu kết quả là dương tính, cần làm nội soi đại tràng. Việc nội soi đại tràng cũng cần được tiến hành trên những người có nguy cơ cao như:
- Bị bệnh viêm loét đại tràng.
- Có dấu hiệu rối loạn tiêu hóa.
- Có người thân bị ung thư đại tràng.
Nếu được phát hiện kịp thời, ung thư đại tràng có thể chữa khỏi bằng phẫu thuật và hóa trị. Không nên coi thường các polyp ở đại tràng, tuy chỉ là các mô lành tính, nhưng polyp có thể chuyển hóa thành ung thư. Khi nội soi đại tràng, nếu phát hiện polyp, bác sĩ có thể cắt nó qua ống nội soi. Những bệnh nhân có polyp nên soi đại tràng định kỳ 1 - 5 năm một lần, tùy kích thước của tổ chức này.