Thử nghiệm liệu pháp ánh sáng giảm bớt tác dụng phụ đau đớn trong điều trị ung thư

Thử nghiệm liệu pháp ánh sáng giảm bớt tác dụng phụ đau đớn trong điều trị ung thư

Hiện nay, các nhà nghiên cứu tại Đại học Buffalo đã nhận được một phần của khoản tài trợ 1,5 triệu đô la để điều tra xem liệu pháp ánh sáng có thể thay thế cho thuốc giảm đau nhóm opioids trong điều trị viêm niêm mạc miệng, loét đau và sưng ở miệng do hóa trị - xạ trị cho bệnh ung thư.

Nghiên cứu này được tài trợ bởi Viện nha khoa Quốc gia và Chương trình nghiên cứu đổi mới doanh nghiệp nhỏ, sẽ giúp các nhà nghiên cứu xác định hiệu quả photobiomodulation, một hình thức trị liệu bằng ánh sáng liều thấp, trong phòng ngừa và điều trị viêm niêm mạc miệng sau điều trị ung thư.

Photobiomodulation (Quang sinh học) là sử dụng ánh sáng đỏ hoặc cận hồng ngoại để chữa lành, phục hồi, kích thích nhiều quá trình sinh lý và phục hồi những tổn thương do chấn thương hoặc bệnh. 

Bên cạnh đó, khoản tài trợ này đã được trao cho MuReva Phototherapy có trụ sở tại Cleveland, một công ty con của nhà sản xuất giải pháp chiếu sáng Lumitex, qua đó tiếp tục phát triển công nghệ ánh sáng. Không những thế, UB đã nhận được giải thưởng 511.000 đô la để thử nghiệm công nghệ này.

Nghiên cứu này được dẫn đầu bởi Tiến sĩ - Trợ lý giáo sư Praveen Arany, tại Trường Y khoa Nha khoa UB, sẽ được thực hiện với sự cộng tác của các giảng viên từ Khoa Y học Bức xạ và Ung thư miệng tại Trung tâm Ung thư Roswell Park.

Arany cho biết: Hiện nay, việc thường xuyên sử dụng opioids đã ảnh hưởng đến việc chăm sóc ung thư, đặc biệt là giảm đau trong điều trị ung thư. Vì thế trong nghiên cứu này đã mang lại một phương pháp điều trị khá đơn giản, không dùng thuốc, không xâm lấn để giảm đau, tuy nhiên lại cải thiện được chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân ung thư.

Và những bằng chứng nổi bật trong phòng thí nghiệm lâm sàng ở các phương pháp điều trị photobiomodulation có thể hỗ trợ việc chăm sóc ung thư đã được chứng minh và dần trở nên ngày càng phổ biến.

Tác dụng phụ tồi tệ nhất trong điều trị ung thư

Viêm niêm mạc miệng xảy ra là do tổn thương mô nhầy khi sử dụng hóa trị, xạ trị , hoặc ghép tế bào gốc. Tình trạng này xảy ra ở gần 40% bệnh nhân được hóa trị liệu và gần 80% bệnh nhân được xạ trị ung thư, theo Trung tâm Kiểm soát Bệnh. Ngoài ra, gần 70% những trường hợp được cấy ghép tế bào gốc cũng có thể phát triển viêm niêm mạc, Arany cho biết thêm.

Đối với những nghiên cứu trước đây, đã phát hiện ra có rất nhiều bệnh nhân đã xuất hiện tình trạng viêm niêm mạc miệng khi được điều trị ung thư và đây được xem là tác dụng tồi tệ nhất. Vì những cơn đau của nó có thể làm chậm hoặc trì hoãn điều trị, đối với những trường hợp nghiêm trọng cần phải nhập viện và sử dụng truyền thức ăn bằng ống.

Giáo sư - Tiến sĩ Mukund Seshadri, Chủ tịch của Khoa Ung thư miệng tại Roswell Park chia sẻ: Ngoài những cơn đau, nó còn ảnh hưởng đến khả năng ăn và nuốt của bệnh nhân, thậm chí có thể gây ảnh hưởng đến kế hoạch điều trị của bệnh nhân. 

Với những tác động bất lợi này đối với chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân, chúng tôi đặt ra mục tiêu cao nhất là phải tìm ra những cách thức mới và tốt hơn để ngăn ngừa hoặc điều trị tình trạng này.

Anurag Singh, Giám đốc nghiên cứu bức xạ tại Roswell Park cũng là giáo sư y khoa tại Trường Y và Khoa học Y sinh Jacobs tại UB cho biết: Cho đến nay, opioids là loại thuốc được kê đơn phổ biến nhất có thể giải quyết các triệu chứng đó, nhưng chúng đi kèm với một loạt các tác dụng phụ gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, bao gồm cả khả năng gây nghiện và lạm dụng.

Vì vậy, chúng tôi đã xem xét một số liệu pháp có thể điều trị các triệu chứng đó, đồng thời hạn chế nhu cầu sử dụng opioid, bao gồm cả điều trị quang hóa.

Ánh sáng như là một giải pháp

Các liệu pháp ánh sáng đã tồn tại trong nhiều thập kỷ, tuy nhiên với những cải tiến trong công nghệ này đã giúp việc điều trị trở nên hiệu quả và được sử dụng phổ biến hơn, Arany nói.

Ở công suất cao, ánh sáng thường là ở dạng laser, được sử dụng trong y học để cắt hoặc phá hủy mô. Nhưng ở mức độ thấp, nó có khả năng giảm đau và thúc đẩy chữa bệnh.

Hiển nhiên hiệu quả của photobiomodulation đem lại trong điều trị đau và thúc đẩy chữa bệnh đã được ghi nhận trong hàng trăm thử nghiệm lâm sàng và hàng ngàn bài báo. Và phương pháp này được sử dụng rộng rãi trên khắp Châu âu, Canada, Úc và một số quốc gia khác. Tuy nhiên, liều lượng sử dụng thích hợp cho việc điều trị hiện vẫn gây ra nhiều tranh cãi, Arany nói.

Tuy nhiên, sau khi thử nghiệm một công nghệ khác được phát triển bởi MuReva Phototherapy, các nhà nghiên cứu của UB và Roswell Park sẽ tiến hành kiểm tra lại hiệu quả của các phương pháp điều trị photobiomodulation cho viêm niêm mạc miệng, cũng như xác định liều lượng thích hợp để hạn chế đau và thúc đẩy chữa lành các mô bị tổn thương do điều trị ung thư.

Vedang Kothari, CEO của MuReva Phototherapy cho biết: Hiện tại, các phương pháp photobiomodulation cung cấp laser sử dụng cho viêm niêm mạc miệng đòi hỏi bác sĩ phải dành 30 phút cho mỗi bệnh nhân mỗi ngày và đây được xem là một cách tiếp cận không thực tế để áp dụng rộng rãi.

Vì thế cơ quan ngôn luận sáng tạo của MuReva Phototherapy cho biết, họ có thể tự điều trị, đồng thời nhắm vào những tổn thương lớn hơn ở khoang miệng và điều trị đầy đủ trong sáu phút hoặc ít hơn. Chúng tôi tin rằng, công nghệ này có khả năng được xem là cuộc cách mạng hóa trong việc điều trị niêm mạc miệng và cuối cùng là những giải pháp sẵn sàng được đưa ra khi các tác dụng phụ xảy ra như gây suy nhược nếu nó được sử dụng rộng rãi.

Chúng tôi rất vui mừng khi được hợp tác với Đại học Buffalo, Bác sĩ lâm sàng và Giáo sư - Tiến sĩ Praveen Arany trong nghiên cứu cải tiến này. Chúng tôi tin rằng sự liên kết giữa học thuật và công nghiệp đem lại ý nghĩa mạnh mẽ và rất quan trọng trong việc thúc đẩy các công nghệ tiên tiến vào thị trường.

Gần đây, ông đã tham gia cuộc họp Quốc hội đầu tiên về photobiomodulation trước Ủy ban Khoa học, Vũ trụ và Công nghệ tại Washington, DC Cuộc họp được tổ chức vào ngày 11 tháng 10 năm 2018, đã mời một nhóm chuyên gia quốc tế về trị liệu để thảo luận về tiềm năng của photobiomodulation trong việc cải thiện chăm sóc sức khỏe và hạn chế phụ thuộc vào opioids.

Ngoài ra, Arany cho biết thêm: Từ những năm 1960, liệu pháp ánh sáng liều thấp đã được sử dụng để thúc đẩy khả năng chữa bệnh.

Tuy nhiên, một trở ngại lớn có thể xảy ra nếu liệu pháp này được sử dụng phổ biến chính là sự thiếu hiểu biết về cơ chế sinh học chính xác của nó. Đối với những nghiên cứu gần đây của nhóm chúng tôi đã phác thảo cả hai quá trình phân tử trị liệu và giới hạn liều lượng qua đó hỗ trợ phát triển các phác đồ lâm sàng an toàn và hiệu quả.

Các câu hỏi liên quan

Xin mời nói. Bạn muốn tìm gì ...