Phương pháp mới giúp phát hiện sớm ung thư buồng trứng với độ chính xác cao vượt trội.
Hiện nay khoảng một nửa số bệnh nhân ung thư buồng trứng có thể sống sót cho đến 5 năm sau khi chẩn đoán. Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, điều này là do những trường hợp được phát hiện sớm căn bệnh này chỉ khoảng 1%. Cho đến nay nếu ung thư buồng trứng được phát hiện ở giai đoạn ban đầu thì cơ hội điều trị và phục hồi thành công là cao nhất.
Nếu có thể thay đổi thực tế bằng cách phát hiện (ung thư buồng trứng) ở giai đoạn ban đầu, thì chúng ta có thể cứu rất nhiều người, Keren Levanon, nhà nghiên cứu bác sĩ tại Trung tâm y tế Chaim Sheba (ở Israel) cho biết.
Trong tạp chí Phân tử & Tế bào, đã công bố một thử nghiệm mới về ung thư buồng trứng vượt trội hơn so với các xét nghiệm trước đó. Vì thế, họ hy vọng nó sẽ giúp sàng lọc những phụ nữ có nguy cơ mắc bệnh.
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng proteomics để tìm ra chữ ký sinh học của ung thư trong dịch tử cung. Ngoài ra, họ còn so sánh mẫu từ bệnh nhân ung thư buồng trứng đang trong quá trình điều trị và những trường hợp phẫu thuật phụ khoa vì những lý do không liên quan đến ung thư (chẳng hạn như u xơ tử cung hoặc chảy máu quá nhiều).
Dịch cơ thể chứa nhiều protein. Hoạt động mạnh mẽ từ các protein phổ biến nhất có thể làm lu mờ các protein khác trong đó cũng có protein (liên quan đến ung thư). Để khắc phục khó khăn đó, các nhà nghiên cứu đã phân loại các vi hạt từ dịch tử cung. Bởi vì khi các hạt vi mô được tách ra khỏi các tế bào, chúng hầu như không chứa các protein huyết tương.
Vì thế khi sử dụng proteomics, các nhà nghiên cứu đã so sánh hàng ngàn protein từ 12 tình nguyện viên khỏe mạnh và 12 bệnh nhân ung thư. Sau đó họ sử dụng các thuật toán học máy để tìm kiếm các mẫu có thể tìm kiếm và phân biệt giữa các mẫu.
Từ đó chúng tôi đã phát triển một phương pháp chẩn đoán gồm 9 protein giúp phân biệt phụ nữ bị ung thư buồng trứng và phụ nữ khỏe mạnh với độ nhạy - độ đặc hiệu cao hơn so với báo cáo trước đây, Levanon nói.
Độ nhạy là tỷ lệ những trường hợp thực sự có bệnh và có kết quả xét nghiệm dương tính.
Độ đặc hiệu là tỷ lệ những trường hợp không có bệnh và có kết quả xét nghiệm âm tính.
Sau đó, họ tiếp tục kiểm tra độ chính xác của phương pháp này bằng cách thử nghiệm trên một nhóm gồm 152 phụ nữ, trong đó 37 trường hợp bị ung thư buồng trứng.
- Xét nghiệm về độ nhạy chiếm 70%, có nghĩa là nó đã phát hiện chính xác ung thư 25 trong số 37 trường hợp tham gia nghiên cứu bị ung thư.
- Còn ở độ đặc hiệu 76%, xác định chính xác khoảng ba trong số bốn tình nguyện viên khỏe mạnh.
Từ những kết quả này cho thấy, phương pháp này vượt trội hơn so với các xét nghiệm dựa trên protein trước đây, có độ nhạy dưới 60%.
Qua đó các tác giả tin rằng phương pháp này có đem lại nhiều lợi ích cho những phụ nữ trẻ có nguy cơ cao bị ung thư buồng trứng. Họ cũng tin rằng việc phân loại vi hạt từ dịch cơ thể giúp phát hiện các hoạt động của protein (ung thư) và điều này đem lại nhiều triển vọng cho các loại ung thư khó phát hiện khác.