Những cải tiến về phương pháp điều trị ung thư xương ở trẻ em
Rhabdomyosarcoma (RMS) là một loại ung thư hiếm gặp của cơ xương chủ yếu ảnh hưởng đến bệnh nhi. Sau khi chẩn đoán, khoảng 3 trong số 4 trường hợp được chữa khỏi bằng cách điều trị tiêu chuẩn. Tỷ lệ sống giảm xuống 17% nếu bệnh bị tái phát trở lại và 30% nếu căn bệnh trên bị di căn.
Rhabdomyosarcoma (RMS) nằm trong số những thống kê căn bệnh tồi tệ nhất trong lịch sử y khoa đối với trẻ em, giáo sư sinh học phân tử và tế bào tại Đại học Arizona, thành viên của Trung tâm Ung thư UA và Viện UA BIO5, cho biết. Hiện nay một nhu cầu cấp bách được đưa ra là cải thiện các phương pháp điều trị cho những trẻ em mắc phải căn bệnh trên.
Đáp lại nhu cầu trên, các nhà nghiên cứu đang mong muốn xác định các loại thuốc "chính xác" có thể nhắm trực tiếp vào các khối u. Họ mong rằng các đánh giá toàn diện nhất về các mục tiêu thuốc RMS gần đây đã được công bố trong Cancer Cell. Tiến sĩ McEvoy, tác giả đầu tiên, đã tham gia nghiên cứu khi cô là một bác sĩ sau đó là tiến sĩ tại Bệnh viện nghiên cứu trẻ em St. Jude ở Memphis. Và tiếp tục đóng góp sau khi tham gia UA vào năm 2014.
Justina McEvoy, Ph.D. Nhà cung cấp hình ảnh: Chris Richards
Tiến sĩ McEvoy đã tìm thấy mục tiêu gây ra căn bệnh trên là một loại protein quan trọng mà một loại thuốc có thể tấn công vào nó.
Mục tiêu là một protein cung cấp cho tế bào ung thư. Nếu các nhà nghiên cứu có thể loại bỏ protein đó, họ có thể đảo ngược hoặc ngăn chặn quá trình đó, cô nói. Rhabdomyosarcomas thường rất ít gây ra đột biến thuốc có thể gây khó khăn cho việc phát triển phương pháp điều trị.
Ngoài ra để tìm ra các mục tiêu khác có thể là các chất gây nghiện, các nhà khoa học tập trung vào các "đường truyền tín hiệu" di truyền, đó được xem là một hệ thống chuyển tiếp cung cấp từ tế bào này sang tế bào khác để trực tiếp phát triển và phân chia.
Các nhà nghiên cứu cho biết: Hãy suy nghĩ về nó như một trạm điện thoại, nơi phụ huynh bắt đầu liên hệ với các phụ huynh khác, và cuối cùng họ thực hiện một kế hoạch, Tiến sĩ McEvoy nói. Một đường truyền báo hiệu cuối cùng có thể sẽ biến tất cả các thông tin cần thiết cho tế bào phân chia.
Tiến sĩ McEvoy và nhóm của cô đã sàng lọc thông qua một cơ sở dữ liệu di truyền và protein lớn được thu thập cho rhabdomyosarcoma để xác định xem các đường truyền trên có chứa các mục tiêu chất gây nghiện tiềm năng hay không. Khi đó họ tập trung vào một gen được gọi là WEE1, được mã hóa cho một protein kinase điều chỉnh sự phân chia tế bào và đặc biệt là các hoạt động trong rhabdomyosarcoma. Trong các thí nghiệm về thuốc chống lại các tế bào ung thư RMS, nhóm nghiên cứu tìm thấy một loại thuốc đặc biệt tên là adavosertib có tác dụng chống lại các khối u biểu hiện WEE1, đặc biệt khi kết hợp với thuốc hóa trị irinotecan.
Khi các nhà nghiên cứu kết hợp với hóa trị irinotecan, liệu pháp điều trị hiện tại cho RMS, với adavosertib, thì kết quả cho thấy hầu hết các khối u có phản ứng hoàn toàn hoặc một phần giúp bệnh ổn định, tiến sĩ McEvoy cho biết. Và phương pháp điều trị này khá hiệu quả so với việc điều trị tiêu chuẩn đơn lẻ.
Những cải tiến về phương pháp điều trị ung thư xương ở trẻ em.
Trước khi adavosertib có thể được sử dụng ở bệnh nhân RMS, các nhà nghiên cứu phải thu thập thêm nhiều bằng chứng về hiệu quả của nó. Nhóm nghiên cứu trước đây của tiến sĩ McEvoy tại St. Jude đang thúc đẩy nghiên cứu trên phát triển hơn nữa. Công việc của nhóm nghiên cứu là cung cấp những thông tin quan trọng bổ sung trong nghiên cứu RMS. Tại Trung tâm Ung thư UA, Tiến sĩ McEvoy đang sử dụng một số bộ dữ liệu tương tự để phân nhánh thành lĩnh vực nghiên cứu của riêng mình, tập trung vào các phân tử được gọi là "các RNA không mã hóa".
Qua đó, các ARN không mã hóa đang nổi lên như là các nhà điều phối chính trong việc hình thành khối u, tiến sĩ McEvoy nói. Công việc trên là một thách thức bởi vì không có bất cứ ghi chép nào thực sự được biết về chúng trong rhabdomyosarcoma, nhưng nó cũng rất thú vị bởi vì nó mở ra hy vọng mới trong việc điều trị căn bệnh trên.
Mã di truyền là một mớ hỗn độn của các phân tử có thể lộ ra những vấn đề như một bản giao hưởng của cuộc sống, mỗi gen biểu thị cho một protein hoặc một ghi chú. Nhưng trong đó có nhiều gen không tạo ra protein, dẫn đến bản giao hưởng có thể im lặng trong khoảng thời gian dài giữa các chuyển động. Tuy nhiên, thay vì ghi chú, những gen này có thể tiến hành hoạt động, kết hợp nhiều tế bào khác nhau và gây ra nhiều ảnh hưởng nhưng lại không có bất kì biểu hiện nào.
Tìm ra cách mà chức năng RNA không mã hóa là một nỗ lực tương đối mới, và Tiến sĩ McEvoy vui mừng cho biết cô đang tìm hiểu thêm về những phần bí ẩn của bộ gen từ người hướng dẫn sự phát triển của các tế bào RMS, bằng cách kích hoạt một số gen và hủy kích hoạt các gen khác. Thí nghiệm của cô đã khám phá ra những đột biến chính thúc đẩy RMS được điều khiển bởi các RNA không mã hóa.
Khi nhà nghiên cứu ngưng hoạt động RNA không mã hóa, họ có thể làm mất phản ứng biểu hiện của gen đột biến đó và các tế bào ung thư trong một đĩa nuôi cấy. Nó khá là mạnh mẽ, tiến sĩ McEvoy nói. Bây giờ chúng tôi đang cố gắng hiểu những gen và protein khác có thể được điều chỉnh bởi các RNA không mã hóa này. Mục tiêu của chúng tôi là tìm ra các liệu pháp đã tồn tại để đóng lại lộ trình của nó.
Tiến sĩ McEvoy biết rằng nghiên cứu là một cuộc chạy đua, được thúc đẩy bởi niềm tin và cô tin rằng những khó khăn gặp phải trong nghiên cứu này thì cuối cùng sẽ được đền đáp bằng những kết quả khả quan.
Khi tôi nhìn thấy những mảnh ghép kết hợp lại với nhau, thì chúng ta có thể thấy được tiềm năng trong phương pháp điều trị mới và nó thực sự bổ ích, cô nói.