Những ảnh hưởng của vắc-xin HPV đối với hai loại virus của ung thư cổ tử cung
Theo một phân tích mới đây về tiền ung thư cổ tử cung trong khoảng 7 năm cho thấy hai loại papillomavirus ở người (HPV) được nhắm mục tiêu tiêm chủng từ năm 2006 đã giảm đi đáng kể, hiện chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ ở bệnh cổ tử cung. Và nghiên cứu này đã cung cấp bằng chứng cho thấy tiêm vắc-xin HPV làm giảm tỷ lệ nhiễm trùng có thể dẫn đến ung thư cổ tử cung.
Nghiên cứu này đã được thực hiện Tiến sĩ Nancy McClung tại Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (CDC) ở Atlanta và đã được công bố trên Cancer Epidemiology, Biomarkers & Prevention, một tạp chí của Hiệp hội nghiên cứu ung thư Hoa Kỳ.
Hầu như tất cả những người hoạt động tình dục sẽ bị nhiễm virus tại một số thời điểm trong cuộc đời của họ, tuy nhiên các trường hợp nhiễm virus này đều tự khỏi mà không cần điều trị, McClung giải thích. Tuy nhiên, nếu tình trạng nhiễm trùng xảy ra thì virus HPV có thể gây ra những thay đổi tế bào, theo thời gian, phát triển thành một tổn thương trên cổ tử cung gọi là tiền ung thư cổ tử cung, qua đó cho phép các nhà nghiên cứu có thể quan sát tác động của việc tiêm vắc-xin HPV sớm ở ung thư cổ tử cung, điều này có thể phải mất hàng thập kỷ để phát triển.
Ở những nghiên cứu trước đây, tỷ lệ mắc ung thư cổ tử cung đang có chiều hướng giảm đi. Vì thế trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu đã tìm cách xem loại HPV 16 và 18 này có đóng vai trò gây ra ung thư cổ tử cung trên toàn thế giới (chiếm 70%). Ngoài ra hai loại virus này đã được nhắm mục tiêu tiêm vắc-xin HPV 4, thường được sử dụng ở Hoa Kỳ từ năm 2006 đến 2015 và vắc-xin 9 hiện là loại duy nhất hiện đang được sử dụng ở Mỹ.
Nghiên cứu này là một phần của Dự án theo dõi tác động vắc-xin phòng bệnh Papillomavirus (HPV) của CDC (HPV-ImpACT), McClung cùng các các đồng nghiệp đã phân tích hơn 10.000 mẫu lưu trữ được thu thập từ năm 2008 đến 2014 ở những phụ nữ ở độ tuổi 18-39 được chẩn đoán mắc bệnh cổ tử cung mức độ 2 hoặc 3 Tân sinh trong biểu mô cổ tử cung hoặc ung thư biểu mô tuyến tại chỗ (CIN2 +). Hiện nay, cả hai tình trạng này đều là tiền ung thư có thể phát sinh từ nhiễm trùng HPV trong thời gian dài và có thể dẫn đến ung thư cổ tử cung. Vì thế, các nhà nghiên cứu đã kiểm tra các mẫu ở 37 loại HPV, sau đó phân tích tỷ lệ và số lượng các trường hợp dựa vào ước tính ở các loại HPV theo thời gian.
Tân sinh trong biểu mô cổ tử cung:
Hay nghịch sản cổ tử cung, đây là những thay đổi của niêm mạc cổ tử cung có tiềm năng ác tính nhưng chưa có sự xâm nhập vào mô đệm và là một tổn thương tiền ung thư cổ tử cung.
Ung thư biểu mô tuyến tại chỗ:
Là tình trạng nghịch sản ở toàn bộ bề dày lớp biểu mô. Những tế bào của carcinoma tại chỗ sẽ xâm lấn vào mô liên kết, theo chiều hướng lan rộng dọc theo màng đáy, và trở thành carcinoma xâm lấn.
Khi đó, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra số trường hợp mắc CIN2 + được báo cáo bởi HPV-IMPACT đã giảm 21%, từ 2.344 trường hợp năm 2008 xuống còn 1.857 vào năm 2014. Và ước tính số lượng các trường hợp mắc bệnh do HPV16 / 18 đã giảm từ 1.235 trong năm 2008 xuống còn 819 trường hợp vào năm 2014.
Ngoài ra, tỷ lệ phụ nữ được tiêm vắc-xin ở các trường hợp CIN2 + dương tính với virus HPV 16/18 đã giảm từ 55,2% xuống còn 33,3%. Đối với những phụ nữ chưa được tiêm chủng, tỷ lệ đã giảm từ 51,0% xuống 47,3% và những trường hợp còn lại (chưa xác định đã tiêm chủng hay chưa), tỷ lệ giảm từ 53,7% xuống 45,8%.
Từ những số liệu trên, McClung giải thích rằng có một số phụ nữ có thể đã nhiễm HPV (loại virus 16/18 của HPV) trước khi họ được tiêm phòng. Bởi vì phần lớn phụ nữ được tiêm chủng trong nghiên cứu này đều đã nhận được vắc-xin vào năm 20 tuổi, đây là độ tuổi hầu hết phụ nữ bắt đầu hoạt động tình dục.
Bên cạnh đó, tỷ lệ những phụ nữ chưa được tiêm chủng đã giảm rõ rệt, điều này xảy ra do những phát triển từ các loại thuốc giúp khả năng miễn dịch đối với một bệnh truyền nhiễm đã đem lại hiệu quả cao, khiến khả năng lây lan của nó ít xảy ra hơn.
Các nhà nghiên cứu đã lưu ý rằng hầu hết mọi nhóm tuổi đều có sự sụt giảm đáng kể về tỷ lệ mắc CIN2 + dương tính với HPV 16/18, ngoại trừ nhóm những người trong độ tuổi 35-39. Phát hiện này đã phản ánh thực tế hầu hết những phụ nữ chưa được tiêm chủng là do họ không đủ điều kiện tiêm chủng vì tuổi.
Hơn nữa, trong khi người da trắng và người da đen đã suy giảm đáng kể về tỷ lệ tiền ung thư, thì những phụ nữ gốc Tây Ban Nha và châu Á lại không như vậy. Đối với phụ nữ Tây Ban Nha và châu Á trong nghiên cứu này có thể ít được tiêm chủng hơn. Tuy nhiên, tính đến năm 2016, vắc-xin HPV ở thanh thiếu niên gốc Tây Ban Nha và châu Á ngày càng gia tăng, do đó, sự chênh lệch về chủng tộc và sắc tộc dự kiến sẽ giảm bớt, McClung nói.
Thống kê gần đây nhất của CDC cho thấy ở 49,5% bé gái và 37,5% bé trai từ 13 đến 17 tuổi đều được cập nhật thông tin về tất cả các liều vắc-xin HPV được khuyến nghị. Bên cạnh đó các bác sĩ lâm sàng nên tiếp tục có những khuyến nghị mạnh mẽ về việc tiêm vắc-xin HPV cho tất cả những trường hợp ở tuổi 11 hoặc 12, và thu thập các câu trả lời về hiệu quả của vắc-xin từ các câu hỏi dành cho cha mẹ.
Nhìn chung, nghiên cứu chỉ ra rằng những nỗ lực khuyến khích các gia đình nên tiêm phòng vắc-xin HPV cho thanh thiếu niên đang được thực hiện hiệu quả và cần được tiếp tục phát huy.
Đây được xem là bằng chứng rõ ràng nhất về việc tiêm chủng vắc-xin HPV có thể ngăn ngừa bệnh cổ tử cung ở phụ nữ trẻ tại Hoa Kỳ, McClung nói. Và trong những năm tiếp theo, mọi người sẽ thấy được hiệu quả về những tác động thậm chí là lớn hơn nhiều ở những phụ nữ được tiêm vắc-xin ở thời niên thiếu.
Tuy nhiên, McClung cho biết một hạn chế là vẫn chưa có khả năng xác định tình trạng tiêm chủng trên khoảng 50% phụ nữ trong nghiên cứu.