Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ của ung thư vú
Cho đến nay nguyên nhân chính xác gây ra ung thư vú vẫn chưa được xác định rõ, nhưng các nhà nghiên cứu đều biết các yếu tố nguy cơ chính gây ra căn bệnh này. Tuy nhiên, hầu hết phụ nữ có nguy cơ cao bị ung thư vú lại không mắc phải nó, trong khi nhiều người không có yếu tố nguy cơ lại bị mắc bệnh.
Hiện tại những yếu tố nguy cơ chính là lớn tuổi và tiền sử bị ung thư vú trong gia đình bạn. Và nguy cơ này sẽ tăng lên đối với những phụ nữ có một số loại u vú lành tính và những phụ nữ bị ung thư buồng trứng. Tuy nhiên nếu bạn đã từng bị ung thư vú, bạn vẫn có thể tái phát căn bệnh này.
Cơ hội bị ung thư vú là gì?
Năm 1940, nguy cơ của một phụ nữ bị ung thư vú là 5%. Nhưng bây giờ rủi ro đó là khoảng 12%. Và trong khoảng một nửa các trường hợp, nhiều phụ nữ không có yếu tố nguy cơ được biết đến.
Các yếu tố nguy cơ của bạn không thể thay đổi
Phụ nữ. Đàn ông cũng có thể bị ung thư vú, nhưng căn bệnh này có khả năng ảnh hưởng đến phụ nữ gấp 100 lần.
Tiền sử ung thư vú. Một phụ nữ bị ung thư ở một bên vú, chẳng hạn như ung thư biểu mô ống dẫn sữa tại chỗ (DCIS - Ductal carcinoma in situ) hoặc ung thư vú xâm lấn, có khả năng mắc các loại ung thư vú mới từ gấp 3 đến 4 lần, nhưng không liên quan đến loại ung thư vú đầu tiên mà là một phần khác của cùng một bên vú. Điều này khác với tái phát ung thư vú trước đó.
Tuổi tác. Nguy cơ của bạn tăng lên khi bạn già đi. Hiện có khoảng 77% phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú mỗi năm trên 50 tuổi và hơn 40% là từ 65 tuổi trở lên.
Ở phụ nữ từ 40 đến 50 tuổi, có 1 trong 68 cơ hội phát triển ung thư vú. Từ 50 đến 60, có lên 1 trên 42. Từ 60 đến 70, có một trong 28. Và ở phụ nữ 70 tuổi trở lên, đó là 1 trên 26 cơ hội phát triển ung thư vú.
Lịch sử gia đình trực tiếp. Có mẹ, chị gái hoặc con gái (người thân "cấp một") bị ung thư vú, thì khả năng những trường hợp này có nguy cơ cao hơn. Thậm chí nó còn lớn hơn nếu người họ hàng này phát triển ung thư vú trước 50 tuổi và bị ung thư ở cả hai vú.
Hiện tại nếu người thân “cấp một” của bạn mắc bệnh ung thư vú thì có hội bạn nhận được nó tăng gấp đôi và nếu có hai người thân đều mắc bệnh này thì nguy cơ của bạn sẽ tăng gấp ba lần. Ngoài ra ở nam giới nếu có người thân đã từng bị ung thư vú thì nguy cơ mắc bệnh của họ cũng gia tăng.
Di truyền học (Genetics). Cho đến nay, khoảng 5% đến 10% trường hợp bị ung thư vú là do di truyền. Đây là những trường hợp có thay đổi ở một trong hai gen, được gọi là BRCA1 hoặc BRCA2, và sẽ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn. Hiện tại những phụ nữ có sự thay đổi di truyền gen BRCA1 thì khả năng mắc ung thư vú khi họ 80 tuổi lên đến 72%. Còn đối với những phụ nữ bị biến đổi gen BRCA2 thì khả năng mắc bệnh lên đến 69% cũng ở độ tuổi đó.
Mật độ vú (Dense breasts). Ngực là một hỗn hợp của mô mỡ, xơ và tuyến. Khi mật độ vú xảy ra sẽ có nhiều mô tuyến, sợi và ít chất béo. Đối với một phụ nữ xuất hiện tình trạng này có nguy cơ bị ung thư vú cao gấp 1,5 đến 2 lần.
Tổn thương tuyến vú (Breast lesions). Đây là tình trạng có tăng sản không điển hình (thùy hoặc ống dẫn) hoặc ung thư biểu mô tiểu thùy tại chỗ làm tăng nguy cơ ung thư vú của phụ nữ cao gấp bốn đến năm lần.
Lịch sử gia đình (xa). Điều này đề cập đến ung thư vú ở những người thân cấp hai hoặc cấp ba như dì, bà và anh em họ.
Đã từng sinh thiết vú (bất thường) trước đây. Đối với những phụ nữ đã từng sinh thiết trước đó về những bất thường bất kỳ nào sau đây đều có nguy cơ tăng nhẹ như: u xơ tử cung với các đặc điểm phức tạp, tăng sản không có triệu chứng, bệnh tuyến xơ hóa và u nhú đơn độc.
Lịch sử sinh sản. Khi cơ thể càng tạo ra nhiều estrogen theo thời gian, nguy cơ mắc bệnh của bạn càng cao. Chúng có thể xảy ra trong khoảng thời gian trước 12 tuổi, bắt đầu mãn kinh sau 55 tuổi và không bao giờ mang thai, điều này làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú và estrogen suốt đời.
Điều trị bức xạ. Nếu bạn đã điều trị bức xạ ở ngực trước 30 tuổi, thường là điều trị ung thư như ung thư hạch.
Ung thư khác trong gia đình. Nếu một thành viên trong gia đình bị ung thư buồng trứng trước 50 tuổi, nguy cơ mắc bệnh của bạn sẽ tăng lên.
Chủng tộc. Ở Mỹ, phụ nữ da trắng và người Mỹ gốc Phi có nhiều khả năng mắc bệnh hơn phụ nữ gốc Tây Ban Nha, Châu Á / Thái Bình Dương và phụ nữ Mỹ bản địa.
Tiếp xúc với diethylstilbestrol (DES - Diethylstilbestrol). Nhiều phụ nữ đã nhận được loại thuốc này trong khoảng thời gian từ 1940 đến 1971 để tránh sảy thai. Nhưng nếu bạn hoặc mẹ bạn mắc bệnh, thì tỷ lệ bị ung thư vú sẽ tăng lên.
Các yếu tố rủi ro bạn có thể thay đổi
Cân nặng. Thừa cân sau mãn kinh làm tăng tỷ lệ mắc bệnh của bạn.
Uống rượu. Rượu có liên quan đến ung thư vú. So với những người không uống, thì những phụ nữ uống một ly rượu mỗi ngày có nguy cơ mắc bệnh rất nhỏ, nhưng những người uống rượu vừa phải (2 đến 3 ly mỗi ngày) có nguy cơ cao hơn khoảng 20%.
Liệu pháp thay thế hormone (HRT - Hormone replacement therapy). Sử dụng lâu dài estrogen và progesterone làm tăng nguy cơ ung thư vú. Những nguy cơ này dường như biến mất nếu bạn ngừng sử dụng chúng trong 5 năm hoặc lâu hơn.
Không vận động. Tỷ lệ cược mắc bệnh của bạn tăng lên nếu bạn không tập thể dục.
Lịch sử sinh sản. Có con đầu lòng sau 30 tuổi hoặc không bao giờ mang thai đủ tháng khiến bạn có nguy cơ cao mắc ung thư vú. Vì vậy, không cho con bú.
Các yếu tố không liên quan đến ung thư vú
Những điều này không ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư vú, bao gồm:
- Sử dụng chất chống mồ hôi.
- Mặc áo lót không dây.
- Phá thai hoặc sảy thai.
- Có thay đổi vú xơ hóa (mô vú dày đặc với u nang lành tính).
- Đa thai.
- Cà phê và cafein.
- Sử dụng thuốc nhuộm tóc.