Nghiên cứu: Thiếu hụt thuốc không ảnh hưởng nhiều đến điều trị ung thư
Hiện tại phần lớn các loại thuốc điều trị ung thư đang bị thiếu hụt trầm trọng (trong vòng 7 năm), tuy nhiên một nghiên cứu mới đây của Viện USC cho thấy điều này không gây ra nhiều ảnh hưởng đáng kể cho hóa trị liệu.
Mireille Jacobson, đồng tác giả nghiên cứu và Phó giáo sư về lão khoa tại Trường USC Leonard Davis cho biết: Những phát hiện này rất đáng ngạc nhiên.
Cho đến nay, mặc dù các loại thuốc được điều trị cho bệnh nhân đang bị thiếu hụt (giảm đi 6 loại thuốc) bao gồm fluorouracil, doxorubicin và cytarabine, tuy nhiên việc đưa vào sử dụng 32 loại thuốc khác đã không gây ra nhiều ảnh hưởng. Tương tự như vậy, liều lượng chỉ giảm ở một vài loại thuốc (trong thời gian thiếu hụt). Kết quả này được công bố ngày 8 tháng 4 trên Dược lâm sàng & Trị liệu.
Vì vậy các nhà nghiên cứu lưu ý rằng: Sự thiếu hụt có thể không được chú ý từ góc độ điều trị, nhưng có thể phải trả giá bằng nhân sự và chi phí tâm lý (không được đo lường bởi nghiên cứu). Bởi vì nghiên cứu này chỉ xem xét một khía cạnh của tình trạng thiếu thuốc ung thư, Jacobson nói.
Tình trạng thiếu thuốc ung thư ngày càng gia tăng nghiêm trọng
Tại Hoa Kỳ, tình trạng thiếu thuốc theo toa đã gia tăng gấp 3 lần từ năm 2005 - 2011. Sự thiếu hụt này đã tạo ra sự chú ý đến các phương tiện truyền thông và các nhà hoạch định chính sách vì lo ngại về thời gian điều trị và liều lượng không đủ. Đối với các bệnh ung thư trong đó một số phương pháp điều trị thường được ưu tiên lâm sàng hoặc không có phương pháp thay thế, thì tình trạng thiếu thuốc có thể đe dọa đến tính mạng của bệnh nhân.
Cho đến nay, không có nghiên cứu nào có thể phân tích một cách có hệ thống các hậu quả mà tình trạng thiếu hụt thuốc có thể gây ra trên toàn quốc. Vì thế các nhà nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu từ các cơ quan y tế nhằm đưa ra một phân tích tổng quát hơn về những tác động của tình trạng thiếu thuốc ung thư trong điều trị ngoại trú.
Hàng triệu tuyên bố, hàng ngàn bệnh nhân, không ảnh hưởng đến hóa trị
Jacobson và Alpert đã nghiên cứu hơn 2,4 triệu yêu cầu hàng tháng về hóa trị liệu được quản lý tại văn phòng bác sĩ, bệnh viện (ngoại trú), hoặc phòng khám trong khoảng thời gian 7 năm. Qua đó có khoảng 182.470 trường hợp (bảo hiểm) mới được chẩn đoán mắc 7 bệnh ung thư phổ biến, bao gồm vú, đại trực tràng, bệnh bạch cầu, phổi, ung thư hạch, ung thư buồng trứng và tuyến tụy.
Trong tất cả những trường hợp mới được chẩn đoán thì có 60% yêu cầu được hóa trị liệu. Tuy nhiên có một số loại thuốc đã bị thiếu hụt trong thời gian nghiên cứu.
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn nhận thấy tình trạng thiếu hụt thuốc (từ năm 2004 đến năm 2011) ít gây ảnh hưởng tới hóa trị liệu (ngoại trú). Ngay cả các loại thuốc hóa trị được sử dụng phổ biến nhất trong điều trị, bao gồm ảnh hưởng tối thiểu đến liều lượng dùng thuốc.
Trong quá trình điều trị bệnh nhân đã không được đáp ứng 6 loại thuốc phổ biến, bao gồm cả các loại thuốc generic đã có mặt trên thị trường trong nhiều thập kỷ. Có vẻ như một số loại thuốc đã trở nên lỗi thời và chi phí rất thấp, nên không còn được sản xuất, Jacobson nói.
Cần lời giải thích
Sau tất cả những gì đã phát hiện, các nhà nghiên cứu đã đưa một số lời giải thích như sau:
Đầu tiên:
Hầu hết tình trạng thiếu thuốc đã được quản lý hiệu quả nhằm giảm thiểu ảnh hưởng đến điều trị ung thư. Mặc dù sự thiếu hụt này xuất phát từ việc trì hoãn sản xuất, nhưng các nhà cung cấp vẫn còn hàng tồn kho, tuy nhiên họ có thể bán giá cao hơn hoặc dự trữ chúng chỉ dự phòng cho trường hợp thiếu thuốc, Jacobson cho biết.
Thứ hai:
Là việc sản xuất nhanh chóng hoặc kịp thời, đôi khi theo yêu cầu của FDA, có thể làm giảm thiểu tác động của sự thiếu hụt trong hóa trị liệu. Và trong một số trường hợp, trợ cấp tạm thời của FDA về nhập khẩu các loại thuốc khan hiếm tại nước ngoài không được chấp thuận có thể đã làm giảm thêm ảnh hưởng của tình trạng thiếu hụt.
Thứ 3:
Các cơ sở dữ liệu cho thấy việc thiếu hụt dự kiến có thể không gây ra nhiều tác động đến việc điều trị. Cơ sở dữ liệu bao gồm bất kỳ sự gián đoạn cung cấp nào ảnh hưởng đến cách nhà thuốc chuẩn bị hoặc phân phối sản phẩm hoặc ảnh hưởng đến việc chăm sóc bệnh nhân khi phải sử dụng một tác nhân thay thế khác.
Ví dụ: Nếu không có lọ thuốc lớn hơn, thì loại thuốc này sẽ được phân loại ra những gói nhỏ hơn được cung cấp và đáp ứng nhu cầu của bệnh nhân. Mặc dù tình trạng này có thể khắc phục bằng cách gia tăng sản xuất thuốc nhưng tác động của nó đối với việc điều trị là rất ít.
Cuối cùng:
Các nhà nghiên cứu cho rằng những phát hiện này có thể là do giới hạn dữ liệu. Bởi vì có một số trường hợp không phải bị ung thư, do đó có thể nhấn mạnh đến tác động của tình trạng thiếu thuốc, như Mechlorethamine, được sử dụng để điều trị ung thư chủ yếu ảnh hưởng đến những người trẻ tuổi. Ngoài ra, giới hạn khu vực địa lý, làm cho dữ liệu bỏ sót những khu vực ít bị thiếu hụt thuốc.
Làm thế nào có thể hạn chế tình trạng thiếu thuốc xảy ra?
Jacobson chia sẻ: Trong tương lai, một thách thức quan trọng được đề ra là "Làm thế nào có thể xác định riêng từng trường hợp thiếu hụt thuốc và kiểm soát tình trạng này tốt nhất". Vì thế một cuộc thảo luận công khai về mục đích sử dụng và những hạn chế danh sách thiếu thuốc của UUDIS và FDA đã được các nhà hoạch định chính sách và bác sĩ thực hiện, từ đó họ sẽ đưa ra quyết định hợp lý nhất.
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cho rằng các phương pháp thay thế có thể theo dõi tình trạng thiếu hụt và đo lường tác dụng của chúng đối với việc điều trị, qua đó tạo thuận lợi cho việc xác định sớm và giảm thiểu các thiếu hụt liên quan đến lâm sàng.