Kiều mạch
Kiều mạch, Mạch ba gốc - Fagopyrum esculentum Moench, thuộc họ Rau răm - Polygonaceae.
Mô tả của cây Kiều mạch:
Kiều mạch là dạng cây thảo, thân mọc đứng, cao 30-80cm, phân cành nhiều. Lá hình tim, tim tam giác, nhọn, có cuống; các lá ở phía trên hầu như không cuống; bẹ chìa mỏng.
Chùm hoa ở nách lá hay ở ngọn; hoa màu trắng hay hơi hồng, có cuống. Quả ba góc nhọn, hơi vượt quá đài hoa, màu nâu đen đen. Hạt có nội nhũ bột.
Sinh thái của cây Kiều mạch:
Cây của miền Bắc châu Á (Xibiri), được trồng ở nhiều nước châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản và nhiều nước châu Âu từ thế kỷ 15. Ở nước ta, Kiều mạch được trồng nhiều ở vùng núi cao để làm lương thực phụ và dùng chăn nuôi. Cây thích nghi với khí hậu ẩm và mát, chịu lạnh yếu, sinh trưởng tốt ở nhiệt độ 15-22°c trong thời gian 70-90 ngày, ra hoa kết quả dài ngày.
Phân bố của cây Kiều mạch:
Kiều mạch phân bố ở Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Hà Nội.
Bộ phận dùng của cây Kiều mạch:
Hạt Kiều mạch - Semen Fagopyri Esculenti; thường gọi là Kiều mạch - 养麦. Thân, lá cũng được dùng.
Thu hái cây vào lúc mới có hoa. Hạt thu hái vào tháng 11-12.
Thành phần hoá học của cây Kiều mạch:
Toàn cây Kiều mạch chứa glucosid là rutosid, nhiều nhất là ở lá (1,78%), ở hoa (0,71%) và ở thân (0,09%). Hạt có chất độc. Rễ chứa oxymethyl anthraquinon. Trong bột quả có 10-11% protid, 2% đường giảm, 65% tinh bột.
Tính vị, tác dụng của cây Kiều mạch:
Kiều mạch có vị chát, hơi the, tính bình; hạt có tác dụng kiện vị, thu liễm, chỉ hư hãn, tiêu viêm. Thân, lá giáng huyết áp, chỉ huyết.
Rutosid có tác dụng giống vitamin P, làm tăng độ chịu đựng và giảm độ thấm của mao mạch và có tác dụng lợi tiểu.
Công dụng làm thuốc của cây Kiều mạch:
Bột Kiều mạch dùng ăn, nấu cháo, làm bánh, và là nguồn thức ăn chống đói quan trọng của đồng bào miền núi. Quả và lá dùng làm thức ăn chăn nuôi gia súc. Chất rutosid thường được dùng đề phòng các tai nạn về mạch máu như vữa xơ động mạch, tăng huyết áp (viêm võng mạc, ban xuất huyết), trong trường hợp viêm da do tia Rơngen, trong sự rối loạn của tuần hoàn tĩnh mạch. Nhân dân một số nơi dùng lá nấu canh ăn dễ tiêu và làm cho sáng mắt, thính tai. Hạt cũng được dùng ở Trung Quốc như hạt Bông chua hay Kim kiều mạch (Fagopyrum dibotrys). Bột hạt được dùng như chất làm mềm và tan sưng.
Ở Vân Nam (Trung Quốc), thân lá cây Kiều mạch được dùng trị cao huyết áp, đứt các mao mạch nhỏ xuất huyết, võng mạc mắt xuất huyết, phổi xuất huyết và đề phòng trúng phong. Hạt sao thơm, tán nhuyễn dùng ngoài làm thuốc thu liễm, chỉ hãn và tiêu viêm.