Khôi

Khôi

Khôi, Khôi tía, Cơm nguội rừng - Ardisia Silvestris Pit., thuộc họ Đơn nem - Myrsinaceae.

Mô tả của cây Khôi:

Cây khôi là dạng cây nhỏ cao tới 2m, thân rỗng xốp, ít phân nhánh. Lá tập trung ở đầu ngọn hay các nhánh bên; phiến lá thon ngược dài 15-20cm, rộng 6-10cm, mặt trên màu lục sẫm mịn như nhung, mặt dưới màu tím đỏ, gân nổi hình mạng lưới, mép lá có răng cưa nhỏ. Hoa mọc thành chùm dài 10-15m, màu trắng pha hồng tía gồm 5 lá đài và 3 cánh hoa. Quả mọng, khi chín màu đỏ.

Sinh thái của cây Khôi:

Cây khôi mọc trong rừng nguyên sinh và rừng thứ sinh, nơi ẩm nhiều mùn, ven suối, ở độ cao 400-1500m.

Ra hoa tháng 4-6, có quả tháng 9-12.

Phân bố của cây Khôi:

Cây khôi phân bố ở Lào Cai, Sơn La, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hoà Bình, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng.

Bộ phận dùng của cây Khôi:

Lá, rễ cây khôi - Folium et Radix Ardisiae Silvestris.

Thu hái lá vào mùa hè-thu, đem về phơi nắng cho tái rồi phơi và ủ trong râm.

Thành phần hoá học của cây Khôi:

Trong cây khôi có tanin và glucosid.

Tính vị, tác dụng của cây Khôi:

Cây khôi có vị chua. Nước sắc lá có tác dụng làm giảm độ acid của dạ dày.

Công dụng làm thuốc của cây Khôi:

Nhân dân miền ngược vùng Lang Chánh, Ngọc Lạc tỉnh Thanh Hoá thường dùng lá Khôi chế biến, sắc uống chữa đau bụng. Hội Đông y Thanh Hoá đã kết hợp dùng lá Khôi (80g), lá Bồ công anh (40g) và lá Khổ sâm (12g) sắc uống chữa đau dạ dày; có thể thêm lá Cam thảo dây (20g). Nhiều địa phương khác của tỉnh Nghệ An cũng dùng lá Khôi chữa đau dạ dày. Lá Khôi được dùng với lá vối, lá Hoè nấu nước tắm cho trẻ bị sài lở, hoặc giã với lá Vối trộn với dầu vừng đắp nhọt cho trẻ. Đồng bào Dao dùng rễ cây Khôi thái nhỏ phơi khô ngâm rượu uống cho bổ huyết, lại dùng sắc uống chữa kiết lỵ ra máu, đau yết hầu và đau cơ nhục.

Các câu hỏi liên quan

Xin mời nói. Bạn muốn tìm gì ...