Khối u ác tính: Khi dabrafenib kết hợp với trametinib đem lại nhiều lợi ích
Viện Chất lượng và Hiệu quả trong Chăm sóc Sức khỏe (IQWiG) của Đức đã điều tra và xem xét liệu thuốc dabrafenib khi được kết hợp với trametinib và thuốc encorafenib cộng với Binimetinib có thể đem lại thêm lợi ích so với các liệu pháp điều trị thích hợp khác cho bệnh nhân ung thư hắc tố hay không.
Ngoài ra, việc thuốc Dabrafenib kết hợp với trametinib được chấp thuận trong điều trị bổ trợ cho bệnh nhân bị u ác tính giai đoạn III với đột biến BRAF V600, và sau khi cắt bỏ hoàn toàn, tức là phẫu thuật cắt bỏ những mô bị ảnh hưởng. Thì viện đã tìm thấy một dấu hiệu đem lại nhiều lợi ích đáng kể.
Bên cạnh đó, khi Encorafenib được kết hợp với binimetinib cũng được sử dụng qua đó cho thấy sự hiện diện của đột biến BRAF V600, trong những bệnh nhân bị u ác tính không thể cắt bỏ hoặc đã bị di căn. Từ đó có thể thấy đã có những lợi ích được bổ sung so với liệu pháp điều trị thích hợp khác đã không được chứng minh cho nhóm bệnh nhân này, đây là những trường hợp bệnh đang tiến triển hơn.
Thuốc nhằm mục đích ức chế sự phát triển của khối u bằng cách nhắm vào hai yếu tố của tín hiệu nội bào
Khối u ác tính được biết đến là khối u phát sinh từ các tế bào sắc tố của da (melanocytes). Chúng có thể phát triển thành các lớp mô sâu hơn và gây nhiều ảnh hưởng đến các cơ quan khác. Và một vài năm trước đây, các lựa chọn điều trị là rất hạn chế. Tuy nhiên, bây giờ một số loại thuốc đã sẵn sàng có thể thúc đẩy một số tế bào của hệ thống miễn dịch, như tế bào lympho T có thể loại bỏ các tế bào ung thư, hoặc ngăn chặn các tế bào ung thư phát triển.
Và trong số các loại thuốc này, được gọi là kháng thể đơn dòng, được liên kết với các thụ thể trên bề mặt tế bào. Chúng bao gồm nivolumab, trong đó IQWiG đã hoàn thành đánh giá lợi ích của loại thuốc này sớm hơn vào đầu tháng 12.
Một số loại thuốc khác, được gọi là chất ức chế tyrosine kinase, có tác dụng nhằm ức chế các yếu tố khác nhau bên trong các tế bào khối u, từ đó dẫn đến việc phát hiện ra một số gen nhất định trong nhân tế bào, dẫn đến tăng sinh tế bào. Và bằng phương pháp đột biến, khi đó một số khối u thường sẽ trở nên kháng thuốc. Vì thế khi kết hợp hai loại thuốc này lại với nhau có thể ức chế hai yếu tố cùng một lúc.
Dabrafenib cộng với trametinib: Đem lại lợi ích tổng thể trong sống sót và tái phát
Đối với sự kết hợp thuốc đầu tiên, nhà sản xuất thuốc đã trình bày và sử dụng 2 lần dữ liệu của nghiên cứu COMBI-AD đang diễn ra. Khi đó sự kết hợp thuốc này đem lại một lợi thế rõ ràng so với liệu pháp điều trị thích hợp khác liên quan đến kết quả "sống sót chung": Ở lần dữ liệu đầu tiên, trong khoảng hai năm rưỡi sau khi trường hợp tham gia nghiên cứu cuối cùng bắt đầu dùng thuốc, và kết quả cho thấy có khoảng 14% các bệnh nhân ở nhánh sử dụng thuốc đã tử vong, trong khi hơn 21% bệnh nhân ở nhánh điều trị bằng liệu pháp khác của nghiên cứu đã tử vong.
Tuy viên việc bệnh tái phát không chỉ được ghi lại ở lần đầu tiên, mà còn ở dữ liệu lần thứ hai sau mười tháng. Khi đó, khoảng 40% bệnh nhân ở nhánh sử dụng thuốc đã tái phát vào sau thời điểm này, trong khi đó ở những trường hợp tham gia vào các liệu pháp khác là 59%.
Và từ phát hiện này đã cho thấy những dấu hiệu bất lợi của sự kết hợp thuốc liên quan đến một số tác dụng phụ. Tuy nhiên những tác dụng phụ gây ra lại được xem là tác nhân chính, nhưng chúng lại không làm tăng nghi ngờ về những lợi thế mà chúng mang lại. Nhìn chung, đây là một dấu hiệu cho thấy những lợi ích đang gia tăng đáng kể của dabrafenib khi kết hợp với trametinib.
Encorafenib kết hợp với binimetinib: Những so sánh gián tiếp cho thấy sự kết hợp này không đem lại lợi ích
Ngoài ra một sự kết hợp thuốc thứ hai nhắm vào các yếu tố giống nhau của các tầng tín hiệu trong các tế bào khối u ở lần đầu tiên, tức là hai tyrosine kinase tiếp theo được gọi là B-Raf và MEK. Tuy nhiên, sự kết hợp của encorafenib và binimetinib lại được sử dụng ở những bệnh nhân bị khối u ác tính không thể được phẫu thuật cắt bỏ hoặc đã hình thành di căn.
Và đối với bệnh nhân không điều trị trước, thì những liệu pháp điều trị thích hợp khác được xem là một phối hợp thuốc khác, đó là vemurafenib kết hợp với cobimetinib. Khi đó các nhà sản xuất đã trình bày dữ liệu từ một so sánh gián tiếp. Và so sánh này cho thấy không đem lại lợi ích về sự sống cho bệnh nhân trong việc kết hợp loại thuốc mới này; và không có bất cứ dữ liệu nào có thể sử dụng hoặc so sánh có sẵn cho các kết quả khác.
Vì thế đối với những bệnh nhân nhận được điều trị trước đó, đã được Ủy ban liên bang (G-BA) xác định điều trị riêng lẻ theo chỉ định của bác sĩ trong việc xem xét xử lý và tình trạng phê duyệt của thuốc. Và hiện nay không bất cứ nghiên cứu nào có thể so sánh trực tiếp hoặc đặt ra cho câu hỏi cho nghiên cứu này, vì thế các nhà sản xuất đã sử dụng những dữ liệu mà các nhà nghiên cứu đã so sánh gián tiếp trong nghiên cứu cho thấy là không phù hợp nhưng lại tạo ra nhiều lợi ích.
Nhìn chung, những lợi ích bổ sung của encorafenib khi kết hợp với binimetinib đã không được chứng minh cho cả hai câu hỏi nghiên cứu.
G-BA quyết định vào mức độ lợi ích đang gia tăng
Hiện nay, việc đánh giá các hồ sơ là một phần trong đánh giá lợi ích sớm theo Điều luật Cải cách Thị trường Sản phẩm Thuốc (AMNOG) được giám sát bởi G-BA. Và sau khi các đánh giá hồ sơ được công bố, thì G-BA tiến hành các thủ tục cho ý kiến và đưa ra quyết định cuối cùng về mức độ lợi ích đang gia tăng.