Khế rừng
Khế rừng, Cây cháy nhà, Khế đồng, Cơm xôi - Rourea minor (Gaertn.) Leenh. subsp. microphylla (Hook, et Arn.) J. E. Vidal (R. microphylla Planch.), thuộc họ Dây khế - Connaraceae.
Mô tả của cây Khế rừng:
Cây khế rừng là dạng cây nhỡ phân cành nhiều, không có lông, cao tới 2m. Lá kép lông chim không đều, cuống dài 6-12cm; lá chét (3-5) 11-17, thuôn thon, dài 2-4 (-6)cm, không cân, mép uốn xuống, cứng, dai, mặt trên bóng, mặt dưới màu lục mốc. Cụm hoa chùm ở nách lá dài 3cm. Hoa màu trắng. Quả đại xanh, to 1,5x0,5cm. Hạt 1, có áo hạt bọc kín xanh xanh, mồng to mềm, trắng.
Sinh thái của cây Khế rừng:
Khế rừng mọc rải rác trên các đồi cây bụi và nơi đất hoang vùng trung du và vùng ven biển.
Ra hoa tháng 5-10, có quả tháng 8 đến tháng 2 năm sau.
Phân bố của cây Khế rừng:
Khế rừng phân bố ở Quảng Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Kiên Giang. Còn có ở Trung Quốc.
Bộ phận dùng của cây Khế rừng:
Toàn cây Khế rừng - Herba Roureae Microphyllae.
Tính vị, tác dụng của cây Khế rừng:
Khế rừng có vị đắng, chát, tính mát; có tác dụng giải nhiệt độc, mai khẩu sinh tân, thu liễm chỉ tả.
Công dụng làm thuốc của cây Khế rừng:
Dân gian thường dùng thân cây Khế rừng nấu nước cho phụ nữ sau khi sinh đẻ uống cho chóng lại sức. Có khi thêm các vị rễ Bổ béo, Ké hoa vàng, Dạ cẩm với liều bằng nhau 20- 30g và Nhân quả giun 10g cùng sắc uống. Lá dùng vò lấy nước uống để điều kinh. Cũng dùng chữa đái vàng, đái dắt, mụn nhọt. Liều dùng 20g sắc uống. Dùng ngoài làm thuốc cầm máu; có thể phối hợp với lá sắn dây, cỏ lào. Còn dùng giã đắp chữa đinh nhọt ở đầu ngón tay.
Dân gian còn dùng cành lá cây Khế rừng làm thuốc uống để chống sẩy thai: sắc nước uống mỗi tháng 2 lần hoặc vò lá uống. Dây cũng thường dùng làm dây buộc.
Ở Vân Nam (Trung Quốc) toàn cây Khế rừng dùng ngoài giã đắp trị đòn ngã, đao thương và trẻ em nhiệt khí sang.
Ở Quảng Tây, người ta dùng rễ cây Khế rừng trị đòn ngã tổn thương; thân, lá dùng trị trẻ em nhiệt sang.