Kết quả đáng khích lệ từ thử nghiệm giai đoạn II ở bệnh bạch cầu tủy cấp tính tái phát
Hiện nay đối với những bệnh nhân bị tái phát bệnh bạch cầu tủy cấp tính đang có một nhu cầu đáng kể về những phương pháp điều trị mới cho căn bệnh này, và đây được xem là loại ung thư máu hiếm gặp rất phổ biến ở người lớn tuổi. Vì thế các nhà nghiên cứu của Trung tâm Ung thư Toàn diện UNC Lineberger gần đây đã báo cáo về những phát hiện đáng khích lệ của họ từ một thử nghiệm lâm sàng qua đó có thể tận dụng hệ thống miễn dịch để chống lại căn bệnh này. Và hiện giờ họ đang nghiên cứu về các chữ ký di truyền để có thể dự đoán được hướng điều trị nào sẽ tốt nhất cho từng bệnh nhân.
Bác sĩ Joshua Zeidner của UNC Lineberger, cho biết với những báo cáo về những số liệu sơ bộ từ một thử nghiệm lâm sàng giai đoạn II tại Hội nghị thường niên Huyết học tại Mỹ lần thứ 60, qua đó việc ban hành liều lượng cao cytarabine trong những hóa trị liệu tiếp theo, đây là một chất ức chế trạm kiểm soát miễn dịch, và pembrolizumab, cho những bệnh nhân bị bệnh bạch cầu myeloid cấp tính đã tái phát hoặc không còn đáp ứng với điều trị khác.
Thực tế cho thấy bệnh bạch cầu tủy cấp tính có tỷ lệ sống sót thấp, chỉ có 27% bệnh nhân có thể sống sót trong 5 năm sau khi được chẩn đoán. Và trong số những bệnh nhân không đáp ứng với điều trị hoặc ung thư bị tái phát, vì thế cần phải có các phương pháp mới để có thể giúp ích trong việc điều trị cho bệnh nhân, Zeidner, trợ lý giáo sư tại Khoa Huyết học / Ung thư của UNC cho biết.
Zeidner cho biết thêm: Khi AML tái phát, thì sẽ rất khó chữa, hiệu quả điều trị cho thấy không khả quan, và khi đó chỉ có hóa trị là thích hợp cho bệnh nhân tuy nhiên tỷ lệ đáp ứng trong phương pháp này chỉ đáp ứng chỉ từ 20 đến 30% có thể nhắm vào các mục tiêu điều trị. Và cho dù trong 2 năm qua các nhà nghiên cứu đã có 8 phê duyệt thuốc mới trong điều trị AML, tuy nhiên vẫn còn một số trường hợp đáng kể vẫn chưa đáp ứng được với điều trị mà phần lớn là bệnh nhân bị AML tái phát trở lại.
Vì thế đối với nghiên cứu mới UNC Lineberger, thì các nhà nghiên cứu đã báo cáo trong 29 bệnh nhân tham gia thử nghiệm, thì chỉ có 12 người có phản ứng tổng thể tương đương 41% và có 10 người cho thấy đã thuyên giảm hoàn toàn chiếm 35%. Từ kết quả đó cho thấy lượng thời gian trung bình mà bệnh nhân đáp ứng với điều trị mà ung thư không tiến triển là 5,7 tháng. Và Zeidner đã nói rằng mặc dù rất khó đưa ra sự so sánh điều này với các phương pháp điều trị khác, tuy nhiên đối với các phương pháp điều trị thông thường cho AML tái phát hoặc khó chữa thì việc thuyên giảm chỉ kéo dài dưới sáu tháng.
Zeidner cho biết thêm: Dựa vào những kết quả trên nên chúng tôi càng thêm phấn khởi về mức độ an toàn và hoạt động lâm sàng của cytarabine liều cao, sau đó là pembrolizumab hiện nay.
bệnh bạch cầu tủy
Chọc hút tủy xương ở bệnh bạch cầu tủy cấp tính. Một số vụ nổ có thanh Auer. Nguồn: Wikipedia
Ngoài ra, Zeidner cho biết nghiên cứu giai đoạn II đang diễn ra. Và một khi họ hoàn thành nghiên cứu này, thì khi đó các nhà nghiên cứu sẽ có thể đưa ra kế hoạch và phân tích kết quả để xác định xem liệu có một dấu hiệu di truyền nào có thể giúp bệnh nhân sẽ đáp ứng với pembrolizumab hay không. Bên cạnh đó những phân tích sơ bộ của họ về 6 bệnh nhân cho thấy một chữ ký gen được dự đoán đem lại nhiều tiềm năng và hiện các nhà nghiên cứu đang lên kế hoạch cho việc nghiên cứu của họ vẫn được tiếp tục để xem liệu chữ ký này có thể giúp dự đoán đáp ứng ở những bệnh nhân khác trong thử nghiệm hay không.
Trong nghiên cứu này các nhà nghiên cứu nhận thấy các chất ức chế trạm kiểm soát được hoạt động bằng cách kìm nén miễn dịch trên các tế bào T được kích hoạt, từ đó một liệu pháp kích thích có thể tấn công qua trung gian miễn dịch để chống lại các tế bào ung thư, Zeidner nói. Hơn nữa, cho dù các tác nhân này có hoạt động chống lại vô số các phân nhóm ung thư, nhưng kết quả cho thấy đa số bệnh nhân đều không đáp ứng được với điều trị. Tuy nhiên, đối với những bệnh nhân có thể đáp ứng lại có những phản ứng lâu dài và bền vững. Vì thế, điều quan trọng ở đây là nếu xác định được các dấu ấn sinh học dự đoán thì những tác nhân này sẽ được sử dụng cho những bệnh nhân có khả năng đáp ứng cao nhất.
Và hiện giờ Zeidner đang dẫn đầu các thử nghiệm khác để có thể cố gắng cải thiện những phản ứng ở bệnh nhân mắc AML. Vì thế ông đã trình bày những phát hiện của mình từ một nghiên cứu giai đoạn I tại Hội nghị thường niên ASH qua đó cho thấy rằng nếu thêm một chất điều hòa miễn dịch phân tử nhỏ, pomalidomide, vào hóa trị liệu ở những bệnh nhân mắc AML mới được chẩn đoán, hoặc hội chứng myelodysplastic có nguy cơ cao, được xem là an toàn, và tỷ lệ phản hồi là 74%.
Tuy nhiên điều đáng chú ý ở đây là, chúng tôi thấy pomalidomide có thể đem lại những thay đổi đáng kể trong sự biệt hóa tế bào T, qua đó tăng cường đáp ứng miễn dịch chống lại bệnh bạch cầu sau hóa trị", Zeidner nói.
Ngoài ra, Zeidner cũng là nhà điều tra chính của Zella 201. Và ông đã trình bày Zeidner những phát hiện từ nghiên cứu này tại Hội nghị thường niên ASH. Bên cạnh đó, Zella 201 là một nghiên cứu sinh học hướng dẫn về alvocidib giai đoạn II, sau đó là cytarabine và mitoxantrone (ACM) ở những bệnh nhân có biểu hiện quá mức MCL-1, một gen điều chỉnh sự sống sót của các tế bào ung thư, trong AML tái phát / khúc xạ. Và với chiến lược điều trị này đã dẫn đến tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn là 57% ở 23 bệnh nhân phụ thuộc MCL-1.