Kê cốt thảo
Kê cốt thảo - Abrus pulchellus Wall, ex Thw. subsp. cantoniensis (Hance) Verdc., thuộc họ Đậu - Fabaceae.
Mô tả của cây Kê cốt thảo:
Kê cốt thảo là dạng dây leo gỗ, dài 60 cm, đường kính 12 mm, có lông mềm màu vàng nâu. Lá có 7-12 cặp lá chét nhỏ, dài 5-12 mm, rộng 3-5 mm, dạng tim, có lông xám. Cụm hoa ở ngọn hay nách lá, thành chuỳ mảnh, thẳng, dài 2-6 cm; hoa dài 6 mm, màu tím hồng nhạt. Quả đậu dài 3 cm, có 4-5 hạt, bóng, màu nâu đen và nâu vàng nhạt.
Sinh thái của cây Kê cốt thảo:
Kê cốt thảo mọc ở lùm bụi ven đường, quanh bản làng ở độ cao tới 500m. Ra hoa tháng 3-6.
Phân bố của cây Kê cốt thảo:
Kê cốt thảo phân bố ở Đăk Lăk (Buôn Ma Thuột).
Còn có ở Trung Quốc, Thái Lan.
Bộ phận dùng của cây Kê cốt thảo:
Toàn cây Kê cốt thảo - Herba Abri Cantoniensis.
Thu hái toàn cây quanh năm, tách bỏ quả, rửa sạch phơi khô dùng.
Tính vị, tác dụng của cây Kê cốt thảo:
Kê cốt thảo có vị ngọt, nhạt, tính mát; có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, giảm đau.
Công dụng làm thuốc của cây Kê cốt thảo:
Ở Trung Quốc, người ta dùng toàn cây Kê cốt thảo trị:
1. Viêm gan cấp và mạn tính, hoàng đản, xơ gan cổ trướng, đau gan;
2. Viêm nhiễm đường tiết niệu, đái ra máu;
3. Phong thấp đau nhức xương khớp, đòn ngã tổn thương;
4. Viêm hạch bạch huyết cổ, rắn cắn;
5. Nóng sốt vào mùa hạ.
Rễ được dùng trị ứ huyết nội thương và làm thuốc thanh lương giải nhiệt.
Liều dùng 30-60g, dạng thuốc sắc.
Đơn thuốc của cây Kê cốt thảo:
1. Vàng da: Kê cốt thảo 30g, nấu sôi với 8 quả Chà là đỏ.
2. Bệnh đường tiết niệu, đái ra máu: Kê cốt thảo 30g, Chó đẻ răng cưa 15g, Bòng bong 10g, nấu nước uống.