Hy vọng mới trong điều trị ung thư não ở trẻ em

Hiện tại việc tìm ra các phương pháp điều trị mới có thể tiếp thêm hy vọng cho những đứa trẻ đang mắc bệnh u thân não (hay còn gọi là ung thư DIPG), đây là một căn bệnh nguy hiểm, gây ảnh hưởng đến trẻ em và không thể chữa trị. Trong các thí nghiệm gần đây trên các mô hình động vật, các nhà khoa học đã thử nghiệm được một loại thuốc có thể tấn công hiệu quả các tế bào ung thư DIPG. Và hiện nhóm khoa học của Rockefeller đang tìm hiểu hợp chất này hoạt động như thế nào.
Nghiên cứu này đã được mô tả trong Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia, cho thấy loại thuốc này tác động lên quá trình cholesterol trong tế bào và đây có thể là mục tiêu hiệu quả để điều trị nhiều loại bệnh ung thư não.
Nhắm mục tiêu khối u
Thông thường khối u ung thư DIPG nằm trong các cầu não, một cấu trúc có độ nhạy cao kết nối não với tủy sống. Vì thế phẫu thuật cắt bỏ khối u thực sự là không thể vì nó có nguy cơ gây tổn thương não nghiêm trọng. Mặc dù xạ trị có thể được sử dụng để tạm thời nhằm giảm các triệu chứng, nhưng chắc chắn ung thư vẫn phát triển, với tỷ lệ sống trung bình dưới 1 năm. Do đó, các nhà nghiên cứu hiện đang nỗ lực tìm ra những cách điều trị mới cho trẻ mắc phải căn bệnh này. Đây được xem là một nhu cầu cấp thiết và quan trọng.
Từ năm 2014, các phòng thí nghiệm của C. David Allis, Giáo sư Joy và Jack Fishman, Viviane Tabar đã hợp tác với nhau. Qua đó, nhóm nghiên cứu đã tìm ra một hợp chất được gọi là MI-2 (tên khoa học là MI-2), giúp ngăn chặn sự phát triển khối u của những con chuột bị ung thư DIPG. Hiện tại loại thuốc này đã có mặt tại phòng thử nghiệm của các nhà khoa học để điều trị bệnh bạch cầu và nó chỉ hiệu quả khi tương tác với menin (tên khoa học là Menin), một loại protein điều chỉnh biểu hiện gen. Vì thế, hiện giờ nhóm của Allis đã bắt đầu nghiên cứu và tìm hiểu tác dụng của hợp chất MI-2 lên các tế bào ugn thư DIPG.
Giả thuyết đầu tiên của chúng tôi là thuốc đã làm ẩn gen bằng cách tương tác với protein menin, Richard Phillips, một bác sĩ chuyên khoa thần kinh tại MSKCC và là thành viên trong phòng thí nghiệm Allis cho biết. Nhưng khi chúng tôi xem xét thêm, thì kết quả lại không được khả quan.
Ví dụ: Khi các nhà nghiên cứu loại bỏ protein menin ra khỏi các tế bào u thân não, những tế bào đó vẫn nhạy cảm với hợp chất MI-2, qua đó cho thấy hợp chất này đã phát huy tác dụng qua những quá trình khác biệt so với trong bệnh bạch cầu. Sau đó, các nhà khoa học còn phát hiện ra các tế bào ung thư DIPG khi tiếp xúc với MI-2 không thể duy trì mức cholesterol khỏe mạnh và nhanh chóng chết, tuy nhiên các tế bào có được bảo tồn bằng cách bổ sung một liều cholesterol. Và trong trường hợp u thân não, hợp chất MI-2 hoạt động bằng cách làm cạn kiệt chất dinh dưỡng. Vì thế, sau cùng các nhà nghiên cứu nhận thấy hợp chất MI-2 ức chế trực tiếp lanosterol synthase (tên khoa học lanosterol synthase), một loại enzyme liên quan đến sản xuất cholesterol.
Không những thế các nhà nghiên cứu còn phát hiện, MI-2 có thể phá hủy các tế bào u thân não, và loại thuốc này không làm tổn thương các tế bào não bình thường. Phát hiện này cũng tương tự như các nghiên cứu khác cho thấy một số tế bào ung thư đặc biệt dễ bị tổn thương do rối loạn cholesterol.
Xây dựng thuốc tốt hơn
Hiện tại những phát hiện trong nghiên cứu này đang được phát triển bởi một trung tâm nghiên cứu khác nhằm can thiệp vào cholesterol và đây được xem là phương pháp điều trị mới của ung thư. Trong tương lai, Phillips và các đồng nghiệp hy vọng sẽ phát triển các hợp chất này để nhắm mục tiêu vào ung thư não. Để có thể thực hiện được điều này, họ đang bắt đầu nghiên cứu một số hợp chất làm giảm cholesterol đã có trên thị trường.
Ban đầu, các loại thuốc này được sản xuất cho những người có cholesterol cao, nhắm mục tiêu vào enzyme lanosterol synthase nhưng chúng chưa bao giờ được coi là thuốc trị ung thư, ông nói. Thậm chí một trong số loại thuốc này còn mạnh hơn hợp chất MI-2, vì vậy hiện giờ chúng tôi đang làm việc với một nhóm các nhà sinh hóa học để xem liệu chúng tôi có thể sửa đổi loại thuốc này và nó có tác dụng đến não hay không.
Ngoài ra, nghiên cứu này còn nhấn mạnh tầm quan trọng của thuốc hoạt động như thế nào. Trong trường hợp này, việc phát hiện ra chất MI-2 có tác dụng với enzyme lanosterol synthase ở các khối u ung thư DIPG (là rất nhạy cảm) với sự can thiệp của cholesterol.
Phillips chia sẻ: Mọi người không thể cho rằng những gì ghi trên nhãn thực sự là cách thuốc hoạt động.