Hy thiêm

Hy thiêm

Hy thiêm, cỏ đĩ, Chó đẻ hoa vàng - Sigesbeckia orientalis L., thuộc họ Cúc - Asteraceae.

Mô tả của cây Hy thiêm:

Hy thiêm là dạng cây thảo sống hằng năm, cao chừng 30-40cm hay hơn, có nhiều cành nằm ngang. Thân cành đều có lông. Lá mọc đối, có cuống ngắn; phiến hình tam giác hay hình quả trám dài 4-10cm, rộng 3-6cm, mép có răng cưa không đều và đôi khi có 2 thuỳ ở phía cuống; 3 gân chính mảnh toả ra từ gốc.

Hoa đầu có cuống dài 1-2cm. Bao chung có hai loại lá bắc; 5 lá ngoài to, hình thìa dài 9-10mm, mọc toả ra thành hình sao, có lông dính; các lá bắc khác ngắn hơn họp thành một bao chung quanh các hoa, 5 hoa phía ngoài hình lưỡi, các hoa khác hình ống, đều có tràng hoa màu vàng. Quả bế hình trứng, 4-5 cạnh, màu đen.

Sinh thái của cây Hy thiêm:

Hy thiêm mọc ở các trảng cỏ, nương rẫy bỏ hoá, bên đường, ven rừng thưa, ở độ cao 50-1800m. Cũng thường được trồng.

Ra hoa từ tháng 4 đến tháng 9 và còn kéo dài đến tháng 1 năm sau.

Phân bố của cây Hy thiêm:

Hy thiêm phân bố từ Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Nội, Hoà Bình vào đến Kon Tum, Gia Lai, Bình Dương, Tây Ninh.

Còn có ở Ấn Độ, Mianma, Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia đến Châu Đại Dương.

Bộ phận dùng của cây Hy thiêm:

Toàn cây trừ gốc rễ cây Hy thiêm - Herba Sigesbeckiae, thường gọi là Hy thiêm thảo - 稀悬草.

Thu hái vào tháng 4-6 lúc cây sắp ra hoa hoặc mới có ít hoa. cắt cây có nhiều lá, loại bỏ lá sâu, lấy phần ngọn dài khoảng 30-50cm, đem phơi hay sấy khô đến độ ẩm dưới 12%. Dược liệu còn nguyên lá khô không mọt, không vụn nát là tốt.

Thành phần hoá học của cây Hy thiêm:

Toàn cây Hy thiêm chứa chất đắng daturosid, orientin (diterpen lacton); 3,7 dimethyl-quercetin.

Tính vị, tác dụng của cây Hy thiêm:

Hy thiêm có vị cay, đắng, tính lạnh, có tác dụng khư phong trừ thấp, thông lạc, giáng huyết áp, giải độc, trấn thống.

Ở Nuven Calêđôni, ngọn cây Hy thiêm được biết là có tác dụng kích thích, làm ra mồ hôi và lợi nước bọt, chống scobut và chữa thương; còn có tác dụng điều kinh và trị giun.

Công dụng làm thuốc của cây Hy thiêm:

Ở Vân Nam (Trung Quốc), cây Hy thiêm được dùng trị tứ chi tê liệt, gân cốt đau nhức, lưng gối vô lực, sốt rét, viêm gan cấp tính, cao huyết áp, đinh sang thũng độc, ngoại thương xuất huyết.

Ở Nuven Calêđôni, cây Hy thiêm được dùng điều trị bệnh ngoài da, bệnh hoa liễu, và lở loét.

Nhân dân ta thường dùng trị phong thấp, tê bại nửa người, đau nhức xương khớp, đau lưng mỏi gối, kinh nguyệt không đều, mụn nhọt lở ngứa, rắn cắn, ong đốt. Ngày dùng 8-16g, dạng thuốc sắc hoặc cao (1-3ml) hoặc hoàn tán. Dùng ngoài giã đắp không kể liều lượng.

Đơn thuốc của cây Hy thiêm:

1.    Chữa phong thấp tay chân tê bại, buốt xương, lưng gối đau mỏi: Dùng Hy thiêm rửa sạch phơi khô, rưới rượu và mật vào, đồ lên rồi phơi, lại tẩm, đồ và phơi 9 lần, sấy khô tán nhỏ, viên với mật, uống mỗi ngày 10-15g. Hoặc dùng Hy thiêm 50g, Ngưu tất 20g, Thổ phục linh 20g, Lá lốt 10g làm bột uống ngày 3 lần, mỗi lần 10-15g.

2.    Chữa sốt rét cơn lâu ngày, đờm đọng hoặc tức đầy không muốn ăn: Dùng Hy thiêm tươi giã nhỏ, chế nước sồi vào, vắt lấy nước cốt uống một chén (30ml), uống nhiều thì nôn ra đờm.

3.    Chữa bại liệt nửa người: Cao Hy thiêm uống với máu mào gà (Theo danh y Lê Kinh Hạp, đời Tự Đức).

4.    Chữa tăng huyết áp: Hy thiêm 8g, Ngưu tất 6g, Thảo quyết minh 6g, Hoàng cầm 6g, Trạch tả 6g, Chi tứ 4g, Long đờm thảo 4g, sắc uống một thang, hoặc dùng dạng chè thuốc. (Tài nguyên cây thuốc Việt Nam).

Các câu hỏi liên quan

Xin mời nói. Bạn muốn tìm gì ...