Hồng hoa

Hồng hoa

Hồng hoa, Rum - Carthamus tinctorius L., thuộc họ Cúc - Asteraceae.

Mô tả của cây Hồng hoa:

Hồng hoa là dạng cây nhỏ, sống hằng năm, cao 0,6-1m hay hơn. Thân đứng, nhẵn, có vạch dọc, phân cành ở ngọn.

Lá mọc so le, gần như không cuống, gốc tròn ôm lấy thân; phiến hình bầu dục hay hình trứng dài 4-9cm, rộng 1-3cm, chóp nhọn sắc, mép có răng cưa nhọn không đều, mặt lá nhẵn, màu xanh lục sẫm, gân chính giữa lồi cao. Cụm hoa đầu ở ngọn thân; bao chung gồm nhiều vòng lá bắc có hình dạng và kích thước khác nhau, có gai ở mép hay ở chóp; hoa nhỏ, màu đỏ cam, đẹp, đính trên đế hoa dẹt. Quả bế, hình trứng, có 4 vạch lồi.

Sinh thái của cây Hồng hoa:

Cây hồng hoa có nguồn gốc ở Ả Rập, được nhập trồng, thích nghi với đất tơi dày, từ vùng thấp tới vùng cao.

Ở nước ta, trước đây Hồng hoa có trồng nhiều ở Hà Giang, sau đó ít thấy trồng. Đến năm 1970, ta lại nhập giống đem trồng ở nhiều nơi. Thường trồng bằng hạt vào mùa xuân.

Ra hoa tháng 5-7, có quả tháng 7-9.

Phân bố của cây Hồng hoa:

Hồng hoa phân bố ở Lào Cai, Hà Giang, Hà Nội, Lâm Đồng. Còn có ở Ấn Độ, Mianma, Trung Quốc, Lào, Inđônêxia.

Bộ phận dùng của cây Hồng hoa:

Hoa - Flos Carthami, thường gọi là Hồng hoa - 红花.

Hạt và dầu hạt cũng được sử dụng. Thu hái hoa đang nở có màu hồng đỏ, phơi ở nắng nhẹ, trong râm cho khô. Để tiện bảo quản, sau khi hái, lấy cánh hoa giã thành bánh rồi phơi khô.

Thành phần hoá học của cây Hồng hoa:

Trong hoa có các sắc tố màu đỏ là carthamin (0,3-0,6%), không tan trong nước và một số sắc tố màu vàng tan trong nước. Còn có isocarthamin sẽ chuyển dần thành carthamin, luteolin 7-glucosid và 3-rhamnoglucosid của kaempferol. Hạt chứa 20-30% dầu, 12-15% protein. Dầu này giàu về các glycerid của các acid béo không trung hoà, có hàm lượng đến 90%.

Tính vị, tác dụng của cây Hồng hoa:

Hồng hoa có vị cay, tính ấm; có tác dụng hoạt huyết điều kinh, tán ứ chỉ thống. Còn có tác dụng tẩy, làm toát mồ hôi, kích thích và làm dịu đau. Hạt có tác dụng xổ, lợi tiểu, làm long đờm và điều kinh.

Công dụng làm thuốc của cây Hồng hoa:

Hồng hoa được dùng chữa bế kinh, đau kinh, ứ huyết sau khi đẻ, khí hư, viêm tử cung, viêm buồng trứng. Còn dùng chữa viêm phổi, viêm dạ dày, tổn thương do bị ngã hay bị đánh ứ huyết sưng đau. Liều dùng 3-8g hoa sắc uống hoặc ngâm rượu uống. Thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác.

Ở Ấn Độ, Hồng hoa được dùng làm thuốc an thần và điều kinh; cũng dùng để chữa sởi, vàng da. Dầu hạt được dùng chữa thấp khớp và chữa các vết loét. Hạt dùng xổ và dùng trị thấp khớp.

Hồng hoa, từ thời Tuệ Tĩnh đã được dùng nhuộm tơ lụa cho có màu đỏ và dùng làm thuốc. Ngày nay, người ta cũng trồng Hồng hoa làm hàng rào, lấy hoa để nhuộm, làm thuốc và còn dùng hạt để lấy dầu. Dầu này sau khi tinh chế, dùng để ăn như dầu hướng dương; còn dùng để thắp sáng, nấu xà phòng, chế sơn, mỹ phẩm... Khô dầu Hồng hoa chứa 40-60% protein dùng làm thức ăn chăn nuôi. Hạt không bóc vỏ, ép dầu xong dùng làm phân bón.

Đơn thuốc của cây Hồng hoa:

1.    Chữa sau khi đẻ máu xấu không ra, đau bụng, bị ngất mê man, phụ nữ kinh bế lâu ngày, huyết tích thành hòn: Hồng hoa, Tô mộc (gỗ Vang), Nghệ đen đều 8g, sắc rồi chế thêm một chén rượu vào uống. (Lê Trần Đức)

2.    Trục thai chết trong bụng ra: Hồng hoa đun với rượu mà uống; hoặc dùng Hồng hoa, rễ Gấc, gỗ Vang, cỏ nụ áo, vỏ cây Vông đồng, lá Đào, Cỏ xước, sắc rồi chế thêm đồng tiện vào mà uống. (Tài nguyên cây thuốc Việt Nam)

3.    Tan máu ứ, thông kinh bế: Hồng hoa 6-8g, sắc hoặc ngâm rượu uống. (Tài nguyên cây thuốc Việt Nam)

4.    Phòng và chống bệnh ban sởi: Hạt Hồng hoa 3-5 hạt nhai nuốt, chiêu nước. (Tài nguyên cây thuốc Việt Nam)

5.    Chữa đơn sưng chạy chỗ này sang chỗ khác: Mầm cây Hồng hoa giã vắt lấy nước cốt uống, bã thì đắp. (Lê Trần Đức)

Các câu hỏi liên quan

Xin mời nói. Bạn muốn tìm gì ...