Hồi

Hồi, Đại hồi - Illicium verum Hook. f. et Thomson, thuộc họ Hồi - Illiciaceae.
Mô tả của cây Hồi:
Cây hồi là dạng cây nhỡ, cao 6-10m. Thân thẳng to, cành thẳng, nhẵn, lúc non màu lục nhạt chuyển sang màu nâu xám. Lá mọc so le, phiến lá nguyên, dày, cứng giòn, nhẵn bóng, dài 8-12cm, rộng 3-4cm, hình mác hoặc trứng thuôn, hơi nhọn đầu, mặt trên xanh bóng hơn mặt dưới.
Hoa mọc đơn độc ở nách lá, có khi xếp 2-3 cái; cuống to và ngắn; 5 lá đài màu trắng có mép màu hồng; 5-6 cánh hoa đều nhau màu hồng thẫm. Quả kép gồm 6-8 đại (có khi hơn), xếp thành hình sao đường kính 2,5-3cm, lúc non màu lục, khi già màu nâu sẫm, mỗi đại dài 10-15mm, có mũi nhọn ngắn ở đầu. Hạt hình trứng, nhẵn bóng.
Sinh thái của cây Hồi:
Cây hồi là dạng cây trồng, lúc non ưa bóng, khi cao 3-4m, trở lên thì ưa sáng. Trồng chủ yếu ở độ cao 200-400m, trên đất phong hoá có tầng dày và ẩm. Hoa nở vào hai vụ; vụ một từ tháng 6 đến tháng 7; vụ hai từ cuối tháng 7 đến tháng 10. Do vậy trên cây có các loại quả khác nhau.
Phân bố của cây Hồi:
Cây hồi được trồng từ lâu ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh và trồng thử ở Phú Thọ và Hà Giang.
Còn được trồng ở Trung Quốc, Philippin, Giamaica.

Bộ phận dùng của cây Hồi:
1. Quả Hồi - Fructus Anisi Stellati, thường gọi là Bát giác hồi hương - 八角茴暮;
2. Tinh dầu Hồi - Oleum Anisi Stellati. Hoa và lá cũng được sử dụng.
Vào tháng 7-9 và 11-12, người ta thu hái quả chín, đem tách quả ra từng mảnh, bỏ hạt, rửa sạch, phơi trong mát cho khô. Khi dùng tẩm rượu sao (cách giấy) hoặc tẩm nước muối sao qua (cách giấy). Người ta thu hái quả Hồi đem về phơi nắng nhẹ cho khô hẳn, rồi cất lấy tinh dầu. Cũng có thể cất từ quả tươi.
Thành phần hoá học của cây Hồi:
Quả hồi chứa nhiều tinh dầu, nếu cất bằng phương pháp kéo hơi nước từ quả hồi tươi thì đạt hàm lượng 3-3,5%; tinh dầu lỏng, không màu hoặc màu vàng nhạt, có mùi thơm đặc biệt. Thành phần chủ yếu của tinh dầu hồi là anethol (80-90%); ngoài ra còn có a-pinen, d-pinen, 1- phellandren, safrol, terpineol, limonen. Lá hồi cũng chứa tinh dầu nhưng độ đông đặc thấp hơn. Hạt hồi không mùi, chỉ chứa dầu béo.
Tính vị, tác dụng của cây Hồi:
Hồi có vị cay, ngọt, mùi thơm, tính ấm; có tác dụng trừ đàm, khai vị, kiện tỳ (kích thích bộ máy tiêu hoá), tiêu thực, giảm co bóp trong dạ dày và ruột, lợi sữa, trừ phong, giảm đau, sát trùng.
Ở Vân Nam (Trung Quốc), quả, hoa, lá hồi được xem là có vị cay, tính ấm, có tác dụng ôn trung lý khí, kiện tỳ chỉ ẩu, khử phong khư đàm.
Công dụng làm thuốc của cây Hồi:
Cây hồi thường dùng trị nôn mửa và tiêu chảy, bụng đầy trướng, đau ruột sán khí (đau xuyên bụng dưới lên). Còn dùng trị đái nhiều, đái dầm, ngộ độc thịt cá, trị tay chân nhức mỏi. Ngày dùng 4-8g dạng thuốc hãm, thuốc sắc, hoặc 1-4g quả dạng thuốc bột. Người ta cũng dùng quả ngâm rượu làm thuốc xoa bóp ngoài da. Lá Hồi dùng trị rắn cắn (nhai nuốt nước, lấy bã đắp). Hồi còn được dùng làm rượu khai vị, làm thơm thuốc đánh răng và gia vị. Tinh dầu Hồi cũng có tác dụng kích thích, làm dễ tiêu, chống co giật, ức chế sự lên men ruột, gây trung tiện, long đờm và lợi tiểu nhẹ, được dùng chữa đau bụng, là thành phần của thuốc ngậm chữa ho và là thuốc xoa bóp chữa thấp khớp, thuốc chữa đau tai, sát khuẩn, trị bệnh nấm da và ghẻ. Còn dùng làm thuốc diệt rận, rệp và là thành phần của thuốc bơm trừ sâu bọ cho gia súc.
Ở Vân Nam (Trung Quốc), quả, hoa, lá Hồi dùng trị ẩu thổ, phúc trướng, vị trướng, sán khí thống.
Đơn thuốc của cây Hồi:
1. Cảm hàn, đau bụng thổ tả: Dùng Hồi hương tán bột uống mỗi lần 2g với rượu, ngày uống 3-4 lần. Hoặc dùng tinh dầu Hồi uống mỗi lần 4 giọt, ngày uống 3-4 lần.
2. Hôi miệng, thở hôi: Dùng hoa Hồi nhai nuốt, mỗi ngày vài cánh.
3. Đau lưng: Hồi (bỏ hạt) tẩm nước muối sao, tán nhỏ, mỗi lần dùng 6-10g với rượu. Ngoài dùng lá Ngải cứu chườm nóng vào lưng.
4. Chữa cổ trướng và thũng trướng mạn tính: Dùng Hồi hương 2g và hạt Bìm bìm đen 8g, tán bột, chia làm 2-3 lần uống trong ngày. Uống trong 3-4 ngày liền.
5. Đại tiểu tiện không lợi: Hồi và Bìm bìm như trên tán bột, mỗi lần uống 4g với nước gừng.