Điều trị ung thư đại tràng
Tổng quát
Đại tràng bao gồm hậu môn và ruột già, dài khoảng 1 thước rưỡi bắt đầu nối từ ruột non cho tới lỗ đít. Nhiệm vụ chính của ruột già là hấp thụ nước và chất bổ dưỡng còn sót của thức ăn, sau khi đã biến chế và hấp thụ bói ruột non, và bài tiết các chất cặn bã ra ngoài khỏi cơ thể.
Ung thư đại tràng đứng hàng thứ hai ở nước Mỹ, sau ung thư phổi. Mỗi năm khoảng 150 ngàn người ở Hoa Kỳ bị ung thư ruột, 50% những người bị ung thư ruột này đến giai đoạn ba rất nặng, khó chữa thì mới được phát hiện.
Ung thư ruột là do di thể tế bào ruột vì bị hư hỏng cho nên tế bào ruột biến dạng quá mau, quá lẹ mà cơ thế không có thể ngăn trở và kiềm chế lại được. Tế bào ung thư mọc lớn dần trong lòng ruột có thể làm đóng nghẽn ruột và chảy máu ruột; tế bào ung thư cũng có thể ăn qua màng làm lủng ruột hoặc theo máu và hệ thống hạch mà lan ra các bộ phận khác như vô gan, phổi, óc. Tế bào ung thư sẽ làm hư hỏng và giết chết các tế bào tốt của ruột cũng như các bộ phận cơ thể khiến cho người kiệt quệ và chết. Ta có thể ví dụ cho dễ hiểu: một bãi cỏ được vun trồng đẹp đẽ và được trang bị một hệ thống tưới nước tân kỳ, bỗng một ngày có dại mọc ra và bắt đầu lan tràn xâm chiếm chỗ cỏ tốt làm cho có tốt bị vàng úa và chết đi. Có dại cũng luồn qua các hệ thống ống nước làm các ống nước bị lủng và hư hỏng, rồi trong một thời gian ngắn, bãi có đẹp hoàn toàn bị thay thế bởi cỏ dại.
Thông thường tế bào ruột biến dạng thành những polyp nhỏ trước khi biến chứng thành ung thư. Những bướu ruột này theo thời gian có thể từ 1 tới 2 năm để mọc to dần lên, thường vào khoảng 2 - 3 cm trước khi trở thành ung thư. Tuy nhiên, cũng có những polyp ruột nhỏ mà vẫn có thể làm ung thư. Vì thế, nếu những polyp này được tìm ra sớm mà cắt đi, thì hiểm họa ung thư cũng sẽ mất giống như có dại, nếu nhổ tận gốc thì nó sẽ không có cơ hội mọc lan tràn.
Triệu chứng của bệnh
Triệu chứng thông thường của ung thư ruột là đi ngoài ra máu, đau bụng, sự đại tiện thay đổi như tiêu chảy, phân bị nhỏ đi, táo bón, thiếu máu. Tuy nhiên, các triệu chứng đau bụng, đi ngoài ra máu rất là thông thường và hầu như ai cũng có triệu chứng trên. Phần nhiều bệnh nhân bị ung thư ruột chẳng có triệu chứng gì cá, nhất là khi ung thư còn nhỏ, hay chỉ mới có polyp ruột hoặc nếu ung thư nằm quá xa hậu môn hoặc không chảy máu thì bệnh nhân sẽ không có đi cầu ra máu. Đó là lý do tại sao bác sĩ khuyến cáo nên truy tầm bệnh ung thư ruột trước khi bệnh phát ra triệu chứng, vì, lúc đó đã quá trễ để chữa trị.
Ai có thế dễ bị ung thư ruột?
Có 95% bệnh nhân bị ung thư ruột ở tuổi trên 50, cho nên những người ở lứa tuổi trên 50 có thế bị ung thư ruột. Ung thư ruột là bệnh di thể tế bào ruột biến chứng cho nên có đặc tính di truyền, thành ra những người có tiểu sử gia đình bị ung thư ruột như cha mẹ, anh chị em, thì có thể dễ bị ung thư ruột; nhất là khi những người thân trong gia đình bị ung thư ruột dưới 50 tuổi. Vì ung thư ruột thường từ polyp ruột bị biến chứng, cho nên bệnh nhân có tiểu sứ đã từng bị polyp ruột có thể bị ung thư ruột. Các bệnh nhân có tiểu sứ ung thư vú, tử cung cũng có tỷ lệ nguy cơ ung thư ruột, vì các di thê của các bệnh ung thư nằm chung nhau.
Làm sao để xác định bệnh?
Nếu có nghi ngờ bệnh nhân bị ung thư ruột, thì phương cách chính xác và hữu hiệu nhất hiện nay để định bệnh là nội soi ruột già (colonoscopy). Với phương pháp này bác sĩ sẽ dùng một ống mềm dẻo với đường kính khoảng 1,5 cm và chiều dài khoảng 1 thước hai. Ống được trang bị với một video chíp để rọi hình lớn lên trên màn ảnh. Bác sĩ có thế luồn lái ống nội soi này đê soi hết phần ruột già, đồng thời có thể lấy tế bào ruột để làm sinh thiết, để xác nhận có ung thư hay không. Nếu ruột chỉ có bướu nhỏ thì bác sĩ có thể cắt đi qua ống nội soi mà không cần phải mổ.
Điều trị bệnh như thế nào?
Phương cách chữa ung thư ruột là cắt bỏ phần ruột bị ung thư đi. Nếu ung thư qua thời kỳ thứ ba hoặc bốn thì bệnh nhân cần phải chữa trị thêm với thuốc trị ung thư, ruột sau khi mổ. Nếu ung thư ở phần hậu môn, thì bệnh nhân phải chạy quang tuyến. Ung thư ruột được chia làm 4 thời kỳ tùy vào tình trạng ung thư đã lan tới đâu.
Thời kỳ 0: ung thư mới chớm sớm và chí nằm trong lòng ruột và thành trong cúa ruột; 80% bệnh nhân sẽ khỏi bệnh.
Thời kỳ 1: ung thư ăn ra thành trong của ruột; 70% bệnh nhân khỏi bệnh.
Thời kỳ 2: ung thư lan ra thành ngoài của ruột nhưng chưa lan qua các hạch xung quanh (lymph nodes) và chưa qua các bộ phận khác của cơ thể.
Thời kỳ 3: ung thư ăn ra thành ngoài của ruột và lan ra các hạch, nhưng chưa qua các bộ phận khác của cơ thể.
Thời kỳ 4: ung thư lan ra các bộ phận khác như gan, phổi…
Theo dõi, chăm sóc bệnh nhân ung thư đại tràng như thế nào?
Việc thăm khám sau khi điều trị ung thư đại tràng là rất quan trọng. Ung thư có thế tái phát nhanh trở lại ngay tại vị trí ban đầu hay có thể tái phát ở nơi xa như gan, hay phổi. Thăm khám lâm sàng phải được bác sĩ khám kỹ, xét nghiệm men gan trong máu, chụp X-quang phổi, chụp CT Scan bụng và vùng chậu, nội soi đại tràng, và đo lượng CEA trong máu. Bất thường men gan chứng tỏ có di căn gan.
Mức độ CEA có thể tăng trước khi mố và trớ về bình thường trong một thời gian ngắn sau khi ung thư được cắt bó. CEA tăng từ từ có thể chứng tỏ ung thư có thế tái phát. Chụp CT Scan vùng chậu có thể cho thấy ung thư tái phát tại gan, vùng chậu hay ở những vùng khác. Nội soi đại tràng có thế thấy được polyp tái phát hay ung thư đại tràng.
Để kiểm tra xem ung thư có tái phát hay không, những bệnh nhân bị ung thư đại tràng có khả năng tăng nguy cơ mắc ung thư tiền liệt tuyến, ung thư vú và ung thư buồng trứng. Vì vậy, khi khám lâm sàng phải khám cả những cơ quan này.
Tương lai của người bệnh ung thư đại, trực tràng như thế nào?
Ung thư đại tràng là nguyên nhân chính gây tử vong, đặc biệt ở những nước phương Tây. Sự hiểu rõ căn bệnh và diễn tiến của nó đang bắt đầu hé mở. Cắt bỏ polyp đại tràng giúp phòng ngừa ung thư đại tràng. Phát hiện sớm ung thư đại tràng có thế giúp cải thiện cơ hội chữa khỏi và sống còn. Mới đây người ta thấy rằng lợi ích của điều trị bằng aspirin và các kháng viêm không steroid ở bệnh nhân ung thư đại tràng.
Trong những thử nghiệm, việc sử dụng những thuốc này có thể làm hạn chế đáng kể hình thành ung thư đại tràng ở một số động vật thí nghiệm. Những loại thuốc khác có khả năng tăng phòng ngừa ung thư như Canxi, selenium, vitamin A, D và E. Tuy nhiên, cần phải có nhiều nghiên cứu hơn nữa trước khi có thể sử dụng đại trà cho công chúng để phòng ngừa ung thư.
Tóm lược về ung thư đại tràng
Ung thư đại, trực tràng là một bệnh lý u ác tính xảy ra ở lớp trong thành đại tràng.
Ung thư đại, trực tràng đứng hàng thứ 3 trong các loại ung thư ở nam giới, đứng hàng thứ tư trong ung thư ở nữ tại Hoa Kỳ.
Nguy cơ bị ung thư đại trực tràng gồm: yếu tố di truyền, polyp đại tràng, viêm loét đại tràng lâu ngày.
Ung thư đại trực tràng thường phát triển từ polyp. Cắt bỏ polyp đại tràng có thế phòng ngừa được ung thư đại trực tràng.
Polyp và ung thư đại tràng ở giai đoạn sớm có thể không có triệu chứng. Vì vậy, điều quan trọng là nên làm xét nghiệm để tầm soát ung thư đại tràng.
Chẩn đoán ung thư đại trực tràng bằng chụp đại tràng có cản quang, hay nội soi đại tràng kèm sinh thiết giúp chẩn đoán xác định.
Điều trị ung thư đại, trực tràng tuỳ thuộc vào vị trí, kích thước, và mức độ lan rộng của ung thư cũng như tuối tác và tình trạng sức khoé người bệnh.
Phẫu thuật là phưong pháp thưòng dùng để điều trị ung thư đại trực tràng.