Dị Dạng Động Tĩnh Mạch

Dị Dạng Động Tĩnh Mạch

Dị dạng động tĩnh mạch là gì?

Dị dạng động tĩnh mạch (tên tiếng Anh là Brain Arteriovenous Malformation) là một rối loạn của mạch máu liên kết giữa động mạch và tĩnh mạch não. Mạch máu não tại khu vực não bộ thường được chia thành nhiều nhánh nhỏ. Đến một điểm nhất định, các mạch máu sẽ phân nhánh thành nhiều mạch nhỏ hay còn gọi là mao mạch. Mao mạch có đường kính bằng một tế bào máu, khoảng 1/5 kích thước sợi tóc con người. Bình thường con người có rất nhiều mao mạch, dòng chảy và áp suất bên trong mao mạch rất thấp.

Một rối loạn của mạch máu liên kết giữa động mạch và tĩnh mạch não.

Một rối loạn của mạch máu liên kết giữa động mạch và tĩnh mạch não.

Tuy nhiên do sự kết nối bất thường giữa động mạch và tĩnh mạch nên máu lưu thông qua mạch máu dị dạng với áp suất cao và nhanh. Dị dạng động tĩnh mạch gây ra rất nhiều vấn đề, phổ biến nhất là vỡ mạch dẫn đến đột quỵ do xuất huyết não hoặc gây áp suất tiếp giáp lên não dẫn đến động kinh (co giật).

Dị dạng động tĩnh mạch có thể xảy ra ở bất cứ đâu trên cơ thể nhưng thường gặp nhất là ở não và cột sống. Dù vậy, dị dạng động tĩnh mạch thường hiếm và gây ảnh hưởng tới dưới 1% dân số.

Nguyên nhân gây ra dị dạng động tĩnh mạch là gì?

Hiện nay chưa thể tìm ra nguyên nhân dẫn tới Dị dạng động tĩnh mạch, nhưng các nhà khoa học tin rằng hầu hết các Dị dạng động tĩnh mạch xuất hiện trong quá trình phát triển phôi thai.

Bình thường, tim bơm máu giàu oxy đến não thông qua động mạch. Các động mạch làm chậm dòng máu chảy bằng cách truyền chúng qua một loạt các mạng lưới mạch máu nhỏ hơn, kết thúc với các mạch máu nhỏ nhất (mao mạch). Các mao mạch từ từ phân phối máu qua các thành mạch mỏng và xốp tới mô não.

Các động mạch và tĩnh mạch trong dị dạng động tĩnh mạch thiếu mạng lưới hỗ trợ của mạch máu nhỏ và mao mạch này. Thay vào đó, một mạng lưới bất thường làm máu đi nhanh hơn và đi trực tiếp từ động mạch sang tĩnh mạch, bỏ qua các mô xung quanh.

Dị dạng động tĩnh mạch xuất hiện trong quá trình phát triển phôi thai.

Dị dạng động tĩnh mạch xuất hiện trong quá trình phát triển phôi thai.

Ngoài các nguyên nhân nói trên thì các yếu tố sau đây cũng làm tăng nguy cơ mắc căn bệnh trên như sau:

- Giới tính nam: Các Dị dạng động tĩnh mạch thường xảy ra ở nam hơn ở nữ.

- Có tiền căn gia đình: Các trường hợp Dị dạng động tĩnh mạch trong gia đình đã được ghi nhận, nhưng vẫn chưa được làm rõ liệu có một yếu tố di truyền chắc chắn nào hay không hay đó chỉ là các trường hợp trùng hợp ngẫu nhiên. Các tình trạng bệnh tật khác có thể ditruyền gây ra các bất thường mạch máu như dị dạng động tĩnh mạch.

Triệu chứng dễ nhận thấy ở dị dạng động tĩnh mạch là gì?

Một dị dạng động tĩnh mạch có thể không gây bất kì dấu hiệu hoặc triệu chứng nào cho đến khi dị dạng này bị vỡ ra, gây ra xuất huyết não. Phân nửa các tình trạng Dị dạng mạch máu não có dấu hiệu đầu tiên là xuất huyết. Nhưng một số người mắc Dị dạng động tĩnh mạch có thể có dấu hiệu và triệu chứng liên quan đến Dị dạng động tĩnh mạch ngoài chảy máu.

Tuy nhiên có một số trường hợp ở những người không bị xuất huyết, thì dấu hiệu và triệu chứng của Dị dạng động tĩnh mạch có thể như sau:

- Co giật.

- Đau cả đầu hoặc một vùng ở đầu.

- Yếu cơ hoặc tê một phần cơ thể.

Triệu chứng co giật.

Triệu chứng co giật.

Ngoài ra một số trường hợp có thể trải qua các triệu chứng thần kinh nghiêm trọng hơn, tùy thuộc vào vị trí của dị dạng, bao gồm:

- Đau đầu dữ dội.

- Yếu, tê liệt tay chân.

- Giảm thị lực.

- Nói khó.

- Lú lẫn hoặc mất khả năng hiểu được người khác.

- Bất ổn định trầm trọng.

Các triệu chứng có thể bắt đầu ở mọi đối tượng nhưng thường xuất hiện ở giai đoạn 10 tới 40 tuổi. Các Dị dạng động tĩnh mạch có thể gây tổn thương mô não theo thời gian. Các ảnh hưởng cứ tích lũy dần theo thời gian và thường gây triệu chứng sớm ở tuổi trưởng thành.

Tuy nhiên, khi đến tuổi trung niên, Dị dạng động tĩnh mạch có xu hướng ổn định và ít gây triệu chứng.

Một số phụ nữ mang thai có thể có triệu chứng nặng hơn do sự thay đổi về thể tích máu và huyết áp.

Đối với một số trường hợp nặng của Dị dạng động tĩnh mạch, gọi là khiếm khuyết mạch máu Galen, có triệu chứng xuất hiện sớm hơn hoặc ngay sau sinh. Mạch máu chính trong loại dị dạng này có thể tạo dịch và gây tích tụ dịch trong não gây phù. Các dấu hiệu và triệu chứng bao gồm phù các tĩnh mạch thấy được trên da đầu, co giật, kém phát triển và suy tim sung huyết.

Cách điều trị dị dạng động tĩnh mạch như thế nào?

Hiện nay, có rất nhiều phương pháp điều trị tiềm năng cho căn bệnh trên. Mục đích chính của việc điều trị là để ngăn ngừa xuất huyết, kiểm soát các cơn co giật hoặc các biến chứng thần kinh khác có thể cũng được cân nhắc.

Bác sĩ thường quyết định phương pháp điều trị nào là thích hợp nhất cho tình trạng của bệnh nhân, phụ thuộc vào độ tuổi, sức khỏe, vị trí và kích thước của các mạch máu bất thường.

Thuốc cũng được dùng để điều trị triệu chứng gây ra bởi Dị dạng động tĩnh mạch, như đau đầu hoặc co giật.

Tuy nhiên phẫu thuật là phương pháp điều trị thông dụng nhất cho căn bệnh trên. Hiện nay, có 3 phương pháp phẫu thuật khác nhau được bác sĩ sử dụng để điều trị căn bệnh trên như sau:

Phẫu thuật cắt bỏ thông thường

- Nếu Dị dạng động tĩnh mạch đã bị xuất huyết hoặc ở trong vùng dễ được tiếp cận, phẫu thuật cắt bỏ dị dạng thông qua một phẫu thuật não thông thường sẽ được bác sĩ đề nghị tiến hành. Trong phẫu thuật này, bác sĩ sẽ lấy ra tạm thời một phần xương sọ để tìm đường vào vị trí của dị dạng.

- Với sự trợ giúp của kính hiển vi năng lượng cao, bác sĩ sẽ kẹp dị dạng với dụng cụ đặc biệt và cẩn thận cắt bỏ nó ra khỏi mô xung quanh. Sau đó sẽ gắn lại sọ và khâu lại vết cắt.

- Phẫu thuật cắt bỏ thường được thực hiện khi dị dạng có thể được bỏ với ít nguy cơ chảy máu hay co giật. Các dị dạng mạch máu ở sâu trong não sẽ co nguy cơ biến chứng cao hơn. Trong các trường hợp này, bác sĩ có thể đề nghị các phương pháp điều trị khác nhau.

Phẫu thuật cắt bỏ thông thường.

Phẫu thuật cắt bỏ thông thường.

Phương pháp gây tắc mạch

- Trong thủ thuật này, bác sĩ luồn một Catheter vào động mạch ở chân và dẫn nó đến mạch máu não nhờ vào hình ảnh X-quang.

- Catheter được định vị ở một trong các động mạch nuôi máu cho dị dạng và tiêm một chất gây tắc mạch, một chất giống như keo để làm tắc động mạch đó và giảm lượng máu đến chỗ dị dạng.

- Phương pháp gây tắc mạch ít xâm lấn hơn phẫu thuật thông thường. Nó có thể được thực hiện độc lập, tuy nhiên thường được làm trước các điều trị phẫu thuật khác để phẫu thuật được an toàn hơn bằng cách giảm kích thước của dị dạng và khả năng xuất huyết.

- Ở một số Dị dạng động tĩnh mạch lớn, phương pháp tắc mạch có thể dùng để làm giảm các triệu chứng giống như đột qụy bằng cách chuyển máu trực tiếp đến các mô não bình thường.

Điều trị tia xạ

- Điều trị này tập trung chính xác các tia xạ để hủy dị dạng mạch máu. Đây không phải là phẫu thuật theo nghĩa đen vì không có bất cứ vết cắt nào được thực hiện.

- Thay vào đó, phẫu thuật này tập trung cao độ các chùm tia xạ vào chỗ dị dạng để hủy mạch máu ở đó và gây sẹo. Các vết sẹo sau đó sẽ từ từ bị tắc trong vòng một tới ba năm điều trị sau đó.

- Điều trị này là thích hợp nhất cho các dị dạng mạch máu nhỏ khó được loại bỏ với phẫu thuật thông thường và cho các loại không gây xuất huyết đe dọa mạng sống.

Các câu hỏi liên quan

Xin mời nói. Bạn muốn tìm gì ...