Có nên chụp quang tuyến vú trước khi phẫu thuật thu nhỏ ngực
Nghiên cứu của Michigan Medicine cho thấy, hàng ngàn phụ nữ trẻ không có nguy cơ ung thư vú được chụp quang tuyến vú trước khi phẫu thuật thu nhỏ vú.
Mỗi năm, hàng ngàn phụ nữ trẻ không có nguy cơ mắc ung thư vú được chụp quang tuyến vú trước khi phẫu thuật thu nhỏ ngực. Bệnh nhân sẽ được kiểm tra, thường theo đề nghị của bác sĩ. Và lời khuyên tốt nhất là nên tránh chụp quang tuyến vú định kỳ trước khi phẫu thuật ngực trừ khi có vấn đề.
Mặc dù sàng lọc trước phẫu thuật là một quy trình từ lâu của các bác sĩ, nhưng không có tổ chức chuyên môn nào khuyên bạn nên kiểm tra định kỳ cho đến khi bước sang tuổi 40.
Erika D. Sears, MD, MS (Thạc sỹ khoa học tự nhiên, Bác sĩ y khoa), là một bác sĩ thẩm mỹ ở Michigan Medicine, người nghiên cứu về sự phù hợp và hiệu quả trong việc chăm sóc sức khỏe, Cô tự đặt ra vấn đề là tần suất thực hiện kiểm tra diễn ra như thế nào.
Nghiên cứu mới của cô được công bố trên JAMA surgery cho thấy gần một phần ba phụ nữ dưới 40 tuổi đã trải qua chụp nhũ ảnh trước khi phẫu thuật thu nhỏ ngực. Các nhà nghiên cứu dịch vụ y tế đã hủy bỏ hồ sơ của 52.486 phụ nữ ở mọi lứa tuổi muốn thu nhỏ vòng 1 trong giai đoạn 2009-2015.
Ngoài ra, rất ít người có thể nhận ra những buổi sàng lọc không cần thiết rất tốn kém và không phải là một loại chi phí bổ sung vào dự luật chăm sóc sức khỏe của quốc gia
Sears cũng là trợ lý giáo sư phẫu thuật tại Đại học Michigan cho biết thêm: "Thay đổi chụp nhũ ảnh cho bệnh nhân dưới 40 tuổi trong quá trình đánh giá phẫu thuật vú dẫn đến nguy cơ cho các xét nghiệm và phẫu thuật xâm lấn về sau."
Chỉ kiểm tra khi cần thiết
Chụp nhũ ảnh.
Trong những năm gần đây, các tổ chức y tế yêu cầu các thành viên của họ xác định các xét nghiệm và quy trình thường được sử dụng trong lĩnh vực mà sự cần thiết phải được đặt vấn đề và thảo luận.
Hiệp hội bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ Hoa Kỳ công bố vào năm 2014 phụ nữ trải qua phẫu thuật vú lựa chọn không nên sàng lọc bổ sung ngoài các hướng dẫn hiện có trừ khi có vấn đề cần quan tâm dựa trên tiền sử bệnh hoặc một phát hiện về thể chất.
Tuy nhiên không dễ dàng để giúp các bác sĩ ngừng thực hiện sàng lọc mà họ đã làm trong nhiều năm qua.
Nghiên cứu gần đây của JAMA Surgery cho thấy 30% phụ nữ trong độ tuổi từ 30 đến 39 đã chụp quang tuyến vú trước khi phẫu thuật thu nhỏ ngực, tỷ lệ cao gấp năm lần so với những phụ nữ cùng tuổi.
Khoảng 4 phần trăm phụ nữ từ 29 tuổi trở xuống được chụp quang tuyến vú khi họ cân nhắc phẫu thuật thu nhỏ ngực so với 0,2% thế hệ phụ nữ millennials (thế hệ những người sinh ra trong giai đoạn 1980 đến 2000).
Những phụ nữ trẻ trong nghiên cứu này có lẽ không nên có bất cứ xét nghiệm sàng lọc nào. Bởi vì không ai trong số họ được ghi nhận có nguy cơ ung thư vú.
Khi thực hiện phân tích, các nhà nghiên cứu đã loại trừ những phụ nữ có hồ sơ bệnh án cho thấy tiền sử cá nhân hoặc gia đình mắc bệnh ung thư vú, khuynh hướng di truyền hoặc u vú lành tính trước đó mặc dù vẫn có nguy cơ nhưng không được ghi trong hồ sơ của họ.
Khi sàng lọc trở nên nguy hại
Phẫu thuật thu nhỏ kích thước ngực được thực hiện bằng cách loại bỏ mô vú và da để giúp người phụ nữ đạt được kích thước ngực cân đối với cơ thể. Giảm kích thước ngực cũng có thể làm giảm bớt sự khó chịu như đau cổ và lưng vì ngực quá lớn.
Việc thực hiện một loạt các xét nghiệm y khoa trước khi phẫu thuật có vẻ như là một ý tưởng tốt. Nhưng chưa có nghiên cứu kết luận nào liên quan đến kích thước vòng 1 với tỷ lệ mắc ung thư vú của phụ nữ.
Ngoài việc lãng phí thời gian và tiền bạc, việc kiểm tra có thể dẫn đến các xét nghiệm và điều trị không cần thiết.
Trong số những phụ nữ ở độ tuổi 30 đã chụp X-quang vú trước khi phẫu thuật thu nhỏ ngực, có 14% tiếp tục chụp MRI, siêu âm hoặc sinh thiết trong đó mô vú hoặc chất lỏng được lấy ra để xét nghiệm.
Nghiên cứu đã cho thấy ung thư chỉ được tìm thấy ở 0,5% phụ nữ. Phát hiện đó giúp thay đổi suy nghĩ ở cả hai phía.
Bác sĩ Sears cho biết: "Tôi nghĩ rằng nếu bệnh nhận nhận thức vấn đề rõ hơn, họ sẽ mạnh dạn trao đổi cụ thể với bác sĩ liệu chụp nhũ ảnh có phù hợp với họ hay không. Đó cũng liên quan đến giáo dục về phía nhà cung cấp và ảnh hưởng về sau của các thử nghiệm trong tương lai mà phụ nữ có thể trải qua."