Chứng đau tim

Chứng đau tim

a. Kiến thức chung

Đau tim là một từ đơn giản dùng để chỉ chung cho nhiều vấn đề phức tạp ảnh hưởng đến hoạt động của tim và khả năng vận chuyển máu một cách có hiệu quả của nó. Nói chung, từ đau tim hàm nghĩa những vấn đề không bình thường với chính tự thân những cơ tim. Thường thì những vấn đề này liên quan đến hệ thống những động mạch và tĩnh mạch làm phận sự cung cấp máu cho tim.

Các triệu chứng xuất hiện khi việc cung cấp máu cho tim có vấn đề bao gồm cơn đau và cảm giác căng tức ở ngực kèm theo cơn đau thắt ngực. Khi các mạch máu bị nghẽn lại hoàn toàn, các cơ tim thực sự thiếu nguồn cung cấp dưỡng khí và năng lượng. Khi đó, bệnh nhân lên cơn đau tim, và sau đó chắc chắn sẽ để lại ít nhiều những thương tổn lâu dài về sau cho tim. Việc chẩn đoán và điều trị đau tim không phải là những điều có thể trình bày đầy đủ trong sách này, và bạn nên tự biết một giới hạn, bạn không thể tự mình đối phó với những cơn đau tim. Các điều kiện chăm sóc chuyên môn và thuốc men là cần thiết, từ khi chẩn đoán bệnh cho đến suốt trong giai đoạn điều trị.

Tuy nhiên, có một số việc mà bạn thực sự có thể làm để ngăn ngừa bệnh tim cũng như sự bộc phát của những cơn đau tim. Bạn cũng có thể làm được một số ít việc có ích để giúp người bệnh tăng thêm khả năng sống sót sau một cơn đau tim. Tuy nhiên, điều quan trọng và khôn ngoan hơn hết là hãy tìm đến sự trợ giúp của y bác sĩ càng sớm càng tốt ngay khi nào mà bạn nhận biết ra được những triệu chứng của bệnh tim. Đưa bệnh nhân đến phòng cấp cứu càng sớm, khả năng can thiệp của bác sĩ sẽ càng cao hơn, và nguy cơ để lại các thương tổn lâu dài cho tim sẽ được giảm thiểu đến mức thấp nhất. Những người thiếu hiểu biết thường không ý thức được hết tầm quan trọng của vấn đề, họ trì hoãn việc trị liệu cho bệnh nhân đến hàng giờ, trong khi vấn đề thực sự được tính toán với giá trị thay đổi theo từng giây phút. Vì thế, hãy cảnh giác cao với những dấu hiệu của bệnh tim. Một sự cẩn thận trong trường hợp này dù có nhầm lẫn vẫn tốt hơn là sự cân nhắc chậm trễ.

Bạn có thể xác định các dấu hiệu đau tim qua những mô tả sau đây:

Đau ngực dữ dội. Thường thì cơn đau tạo cảm giác như bị đè nặng, hoặc bị bóp nghẹt lại, đau ở sâu trong lồng ngực và đau liên tục, ngay bên dưới xương lồng ngực. Cơn đau lan tỏa dẫn ra phía sau lưng, bên cánh tay trái hoặc lên phía hàm. Các loại thuốc như nitroglycerin - có thể làm mất cơn đau thắt ngực hoặc antacid không có hiệu quả gì với cơn đau này. Nếu cơn đau kéo dài quá 10 phút, nên đưa đi cấp cứu ngay. Tuy nhiên, khoảng chừng 2 trong số 10 bệnh nhân lại không có những triệu chứng đau loại này. Một số người chỉ có cảm giác lồng ngực bị ép lại hơi khó chịu, hoặc cảm giác căng tức, hay bị ép chặt nơi khoảng giữa ngực, thay vì là những cơn đau. Tuy vậy, nếu những dấu hiệu này kéo dài hơn 10 phút, cần đưa bệnh nhân đi cấp cứu ngay.

- Toát mồ hôi rất nhiều, người lạnh và da rịn mồ hôi liên tục.

- Buồn nôn, ói mửa, hoặc những cảm giác rối loạn nghiêm trọng khác trong hệ tiêu hóa.

- Hơi thở ngắn, chóng mặt, đầu óc choáng váng quay cuồng, hoặc ngất xỉu.

- Có cảm giác mình sắp chết, hết sức căng thẳng hoặc sợ sệt. Có rất nhiều người nhận ra những triệu chứng như trên, nhưng bỏ qua và chỉ chờ đợi cho bệnh nhân khỏe lại. Phủ nhận tính nghiêm trọng của một vấn đề vào những phút đầu tiên là phản ứng thông thường của tất cả mọi người, nhưng điều quan trọng trong trường hợp này là bạn phải nhanh chóng vượt qua sự phủ nhận sai lầm đó. Những người chết vì đau tim thường chết ngay chỉ trong vòng 2 giờ tính từ những dấu hiệu đầu tiên. Sự chậm trễ chỉ làm giảm nhanh khả năng sống sót của người bệnh.

Trong thời gian điều trị bệnh tim, chế độ ăn uống đóng một vai trò khá quan trọng. Các nhà khoa học cho rằng một chế độ ăn với hàm lượng chất béo giảm mạnh có thể giúp làm ổn định hoặc thậm chí giảm nhẹ mức độ nghiêm trọng của bệnh tim, ngăn ngừa được sự bộc phát của những cơn đau tim. Khi áp dụng chế độ ăn giảm mạnh chất béo, thậm chí những thay đổi rất nhỏ ghi nhận trên kết quả X-quang cũng đi kèm với những hoàn thiện rất đáng kể trong các triệu chứng bệnh. Nguyên nhân ở đây là vì chế độ ăn này giúp làm thông thoáng những tĩnh mạch rất nhỏ mà kết quả X-quang không ghi nhận được.

Một mối quan hệ giữa bệnh tim và aspirin

Dùng aspirin mỗi ngày có thể giảm 30% nguy cơ lên cơn đau tim ở phụ nữ. Phụ nữ lớn tuổi đã qua thời gian kinh nguyệt, thường là từ 50 trở lên, dễ có nguy cơ bị bệnh tim do nghẽn các động mạch. Khi dùng mỗi ngày một viên aspirin với hàm lượng, 325 miligam thì nguy cơ này giảm đi thấy rõ. Nguyên nhân tạo ra hiệu quả này là vì aspirin giúp thay đổi tính chất của máu, làm giảm độ bám dính vào thành động mạch, đồng thời ngăn ngừa các khối máu đông rất nhỏ trong máu. Chính các khối máu nhỏ này là nguyên nhân gây tắc nghẽn mạch máu khi mạch máu bị hẹp lại. Tuy nhiên, tránh dùng aspirin đối với những bệnh nhân đã từng đau bao tử hoặc đang dùng một loại thuốc chống đông máu nào khác.

Aspirin dùng với liều trung bình hai ngày một lần để ngăn ngừa các cơn đau tim. Và dùng mỗi ngày một liều thấp (viên 81 miligam) để ngăn ngừa chứng đột quỵ. Tuy nhiên, điều quan trọng là trước khi bắt đầu dùng thuốc, nhất thiết phải qua ý kiến của y bác sĩ.

Một dấu hiệu mới của chứng đau tim

Người già từ 50 tuổi trở lên có thể được phát hiện bệnh tim nhờ một dấu hiệu mới được biết đến gần đây. Đó là một nếp nhăn chạy dài từ một trong hai mép tai, xéo góc, khoảng 45o xuống vai. Một cuộc nghiên cứu cho biết đây là một trong những dấu hiệu khá sớm cho thấy người này có khả năng mắc bệnh tim.

Bác sĩ William Elliot ở Pritzker School of Medicine, thuộc trường đại học Chicago đã nghiên cứu 108 người, gồm cả nam và nữ, trong vòng 8 năm. Một số người trong đó có dấu hiệu mắc bệnh tim và một số có những nếp nhăn dưới mép tai. Sau 8 năm, một nhận xét được đưa ra là tỷ lệ tử vong vì bệnh tim cao hơn nhiều ở những người có nếp nhăn dưới mép tai, so với những người không có dấu hiệu này.

Bác sĩ William Elliot suy đoán để giải thích hiện tượng này rằng, các động mạch cung cấp máu cho tim có lẽ cũng tương tự như các động mạch dẫn máu lên vành tai. Nếu suy đoán này là đúng, thì những gì xảy ra cho các động mạch ở tim hẳn đồng thời cũng xảy ra cho các động mạch dẫn máu lên vành tai. Vì thế, khi lượng máu đưa lên vành tai bị giảm đi tức là một dấu hiệu cảnh báo về khả năng mắc bệnh tim. Và nếp nhăn nơi mép tai chạy xuống vai dường như là dấu hiệu xuất hiện khi lượng máu đưa lên tai bị suy giảm. Tuy nhiên, dấu hiệu này không thể xuất hiện ở những người chưa quá độ tuổi 50.

Mặc dù những người béo mập được xem là có nhiều nguy cơ mắc bệnh tim hơn, các nhà nghiên cứu lại không thấy có sự khác biệt nào giữa họ với người bình thường về khả năng xuất hiện các nếp nhăn dưới mép tai.

Hút thuốc lá làm mất đi các dấu hiệu đau tim

Những cơn đau nhẹ nơi vùng ngực thường là dấu hiệu cảnh báo rất sớm để bạn bắt đầu chú ý tới những vấn đề về bệnh tim.

Tuy nhiên, với người hút thuốc lá, các dấu hiệu cảnh báo quý giá này đôi khi không được nhận ra. Đó là do hậu quả gây ra bởi thuốc lá. Bác sĩ Paula Miller giải thích rõ hiện tượng này bằng cách tiến hành một thí nghiệm với những người hút thuốc lá. Sau khi những người trong nhóm hút xong một điếu thuốc lá, người ta đặt lên cánh tay họ một cái que được làm ẩm lên. Cứ sau mỗi điếu thuốc, nhiệt độ được gia tăng lên một ít, nhưng không ai trong những người hút thuốc nhận ra được điều đó. Thuốc lá đã có tác dụng như một loại thuốc “giảm đau” trong trường hợp này. Các nhà khoa học vẫn chưa nói rõ được thuốc lá đã làm tê liệt các dây thần kinh như thế nào, nhưng đây chính là lý do làm cho những người hút thuốc không nhận ra được sự thay đổi của nhiệt độ.

Và tương tự như thế, những cơn đau nhẹ ở ngực để báo động về khả năng mắc bệnh tim đã bị những người hút thuốc bỏ qua đi không nhận biết.

Nếu bạn đang hút thuốc, có thể đây lại là một lý do nữa - trong số rất nhiều lý do đã từng được biết - để bạn tiếp tục cân nhắc việc bỏ thuốc.

Nguy cơ của những người không hút thuốc lá. Bạn có thể nghĩ rằng mình không hút thuốc lá, và như vậy là không có vấn đề gì liên quan đến bạn khi nói về mối quan hệ giữa khói thuốc với bệnh tim. Bạn đã lầm. Vấn đề thực ra chưa hẳn đã như vậy.

Chỉ cần bạn có tiếp xúc với những người hút thuốc lá trong gia đình, nơi làm việc, trên xe buýt... Là bạn có khả năng đã hít phải khói thuốc lá vào trong phổi. Các nhà khoa học gọi trường hợp này là “hút thuốc thụ động”.

Nguy cơ mắc bệnh tim với những người hút thuốc thụ động cao gấp 2,5 lần so với những người thực sự không tiếp xúc với khói thuốc lá.

Nguyên nhân ở đây được giải thích rất rõ ràng. Khói thuốc lá mà bạn hít vào - do người khác thải ra - kích thích cơ thể bạn tạo ra rất nhiều fibrinogen, một trong các thành phần của máu có công năng giúp thúc đẩy tiến trình đông máu. Sự đông máu là một hiện tượng rất cần thiết giúp cơ thể chống lại sự mất máu khi có những vết cắt ngoài da. Tuy nhiên, khi fibrinogen được tạo ra quá nhiều trong máu, tiến trình đông máu không còn tự nhiên và hợp lý nữa. Các khối máu đông liên tục được tạo ra một cách không cần thiết và do đó làm tắc nghẽn các động mạch, gây bệnh tim.

Như vậy, nếu bạn không hút thuốc, bạn vẫn chưa được an toàn. Còn phải làm sao cho quanh bạn không còn ai hút thuốc nữa. Nếu chưa được như vậy, hãy cẩn thận tránh xa những nơi nhiều khói thuốc. Ngược lại, nếu bạn là người hút thuốc lá, hãy suy nghĩ thêm về mối nguy hiểm đe dọa mà bạn đang mang đến cho những người thân yêu quanh mình, nhất là vợ con của bạn.

b. Những điều nên làm

Có những vấn đề cực kỳ nghiêm trọng, nhưng đôi khi lại được giải quyết bằng những giải pháp khá đơn giản. Đó chính là trường hợp của bệnh tim. Chỉ cần bạn thay đổi nếp sống của mình theo một hướng tích cực hơn, đôi khi bạn có thể thoát khỏi căn bệnh chết người mày mà không cần đến cả sự can thiệp của thuốc men - dĩ nhiên là điều này chỉ đúng khi bạn còn chưa lên cơn đau tim.

Một số nhà khoa học tuyên bố rằng, chỉ cần tuân thủ chế độ ăn uống giảm mạnh chất béo, sống nếp sống giản dị hơn, giải quyết mọi lo lắng, căng thẳng, bệnh nhân đau tim có thể sẽ hồi phục chỉ trong vòng một năm.

Tuy nhiên, những chứng cứ thuyết phục hơn được đưa ra sau một cuộc nghiên cứu thử nghiệm kéo dài một năm với 41 người mắc bệnh tim tình nguyện tham gia, trong đó có cả nam và nữ, độ tuổi từ 35 đến 75.

Những người bệnh được thuyết phục đồng ý thay đổi nếp sống của mình theo như được hướng dẫn, như một phương thức dùng trị liệu chứng bệnh tim của họ.

Người ta tách ra 22 người trong số này để hướng dẫn những thay đổi đáng kể trong sinh hoạt và thói quen hàng ngày. Chế độ ăn của họ là chế độ ăn chay, được giảm mạnh lượng chất béo. Hàng ngày, họ tập thể dục đều đặn và được tham dự một khóa học về chống căng thẳng tâm lý. Tất cả đều bỏ hẳn không hút thuốc lá, không uống cà phê, không uống rượu và các thức uống có cồn. Nhóm còn lại gồm 19 người được tham gia vào một chương trình chung mà hầu hết các bác sĩ tim mạch vẫn thường khuyến khích bệnh nhân tham gia. Họ không hút thuốc lá, tập thể dục vừa phải và ăn thức ăn theo giới hạn tối đa là 30% chất béo trong tổng số năng lượng được cơ thể tiêu thụ.

Sau một năm, 18 trong số 22 người của nhóm thứ nhất có những thay đổi thấy rõ. Các động mạch trước đây tắc nghẽn giờ được thông thoáng như cũ, tất cả các mạch máu đều trở lại tình trạng hoàn hảo như khi họ chưa mắc bệnh.

Các triệu chứng bệnh trong cả nhóm được ghi nhận giảm thiểu đi ở các mức độ:

- Chu kỳ lặp lại của những cơn đau: Giảm 91%

- Thời gian kéo dài của những cơn đau: Giảm 42%

- Mức độ nghiêm trọng của những cơn đau: Giảm 28%

Các nhà nghiên cứu trong cuộc thử nghiệm này cũng đưa ra nhận xét là những bệnh nhân nặng nhất có những thay đổi khả quan nhất, và phụ nữ dễ có những thay đổi khả quan hơn nam giới.

Trong nhóm thứ hai gồm 19 người, chỉ có 8 người có dấu hiệu thay đổi tích cực, nhưng lại có đến 10 người trở nên tệ hại hơn trước nhiều. Các chỉ số ghi nhận về chu kỳ lặp lại của những cơn đau, thời gian kéo dài và mức độ nghiêm trọng đều gia tăng hơn trước.

Các nhà nghiên cứu nói rằng những thay đổi tích cực trong nhóm bệnh nhân thứ nhất tương tự như hiệu quả của việc điều trị bằng cách dùng thuốc làm giảm hàm lượng cholesterol trong máu. Tuy nhiên, thực tế là những bệnh nhân này hoàn toàn không được điều trị bằng thuốc.

Mặc dù trong nhóm thứ hai cũng có 8 người có dấu hiệu thay đổi tích cực, nhưng qua thử nghiệm này, các nhà khoa học kết luận là cần phải áp dụng những thay đổi nếp sống một cách triệt để hơn mới tác động mạnh đến căn bệnh.

Những lời khuyên cụ thể mà bạn có thể rút ra từ đây để áp dụng với bệnh tim là:

- Ăn chay, với hàm lượng chất béo giảm mạnh, chỉ trong phạm vi 10% tổng số năng lượng tiêu thụ của cơ thể (tính bằng ca-lo-ri).

- Loại trừ tất cả các nguyên nhân gây căng thẳng tâm lý, tập thở sâu, tập ngồi thiền và thư giãn mỗi ngày ít nhất là một giờ.

- Loại bỏ thuốc lá, cà phê, rượu bia một cách tuyệt đối.

- Tập thể dục đều đặn hàng ngày. Đi dạo những quãng ngắn ít nhất là 3 giờ trong một tuần.

- Sinh hoạt tập thể: Gia đình, bạn bè, câu lạc bộ...

- Ít nhất là 2 lần trong một tuần để có những trao đổi cởi mở và nhận sự hỗ trợ về mặt tâm lý từ cộng đồng.

Cách giảm nhịp tim không dùng thuốc

Nhịp tim nhanh không phải là một vấn đề nghiêm trọng lắm. Tuy nhiên, nếu mức tăng nhanh lên đến chừng 160 nhịp trong một phút có thể gây khó chịu và thậm chí bắt đầu nguy hiểm. Nhịp tim bình thường của một người ở tuổi trưởng thành là từ 50 đến 100 nhịp mỗi phút.

Ngoài việc can thiệp bằng thuốc, các bác sĩ từ lâu vẫn sử dụng một số biện pháp đơn giản để làm giảm nhịp tim khi cần thiết. Xoa bóp các động mạch ở cổ hoặc ấn nhẹ để tạo một sức ép lên hai mắt, là những biện pháp có thể làm giảm nhịp tim.

Gần đây, nghiên cứu tâm sinh lý của những người thợ lặn, các bác sĩ đã tìm ra một phương thức mới hiệu quả hơn. Khi một thợ lặn lao xuống nước lạnh, nhịp tim của họ tự nhiên chậm lại đáng kể, điều này là do tâm lý dự báo trước về lượng dưỡng khí mà cơ thể nhận được đang bắt đầu giảm đi. Một hiệu quả tương tự sẽ đạt được khi người bệnh được đặt ngồi trước một chậu nước đá, hít một hơi thật dài rồi nín thở và dầm mặt sâu vào dưới nước lạnh. Thực tế, nhịp tim có thể giảm ngay đến hơn 15 nhịp mỗi phút. Tuy nhiên, biện pháp này cần thận trọng khi áp dụng, vì nhiệt độ quá lạnh của nước đôi khi gây cho bạn những sự khó chịu khác thay vì là nhịp tim nhanh. Thức ăn làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim.

Ngoài việc chế độ ăn uống có thể giúp bạn hồi phục sau khi đã mắc bệnh tim, còn phải đề cập đến những thức ăn giúp bạn ngăn ngừa trước nguy cơ mắc phải căn bệnh này. Bác sĩ Joann Manson đã báo cáo tại một cuộc họp thường niên của American Heart Association rằng, những phụ nữ dùng khoảng 15 miligam beta carotene mỗi ngày có thể giảm đến 40% nguy cơ bị đột quỵ và 22% nguy cơ mắc bệnh tim.

Bác sĩ Manson cũng tường thuật chi tiết kết quả của một cuộc nghiên cứu giữa nguy cơ mắc bệnh tim với các thức ăn giàu vitamin E và beta carotene, với một nhóm đối tượng gồm 87.245 phụ nữ ở độ tuổi từ 34 đến 59, kéo dài trong 8 năm.

Theo kết quả của cuộc nghiên cứu này thì những phụ nữ được cung cấp thức ăn giàu vitamin E và beta carotene có nguy cơ mắc bệnh tim thấp hơn những người khác.

Theo như đã biết thì vitamin giúp ngăn ngừa các lớp cặn bám vào thành động mạch, tích tụ lâu ngày làm hẹp động mạch và dẫn đến các triệu chứng đột quỵ cũng như bệnh tim.

Bác sĩ Manson cũng cho biết là phụ nữ sau khi dùng một liều 100 miligam vitamin E, có thể giảm đến 36% nguy cơ mắc bệnh tim. Bà nhấn mạnh cách tốt nhất để giảm nguy cơ mắc bệnh tim là ăn nhiều các thức ăn có chứa vitamin E và beta carotene, như là cà-rốt, khoai lang, quả mơ... Một số loại dầu thực vật cũng được biết là rất giàu vitamin E, nhưng chúng kèm theo lượng chất béo quá lớn, và vì thể không có lợi cho việc phòng chống bệnh tim. Nên cân nhắc cả yếu tố này trước khi chọn ra một thực đơn thích hợp cho chế độ ăn của bạn.

Ngoài ra, nhiều cuộc nghiên cứu khác cũng nhận biết vai trò của vitamin C trong việc giúp chống lại bệnh tim. Liều cao vitamin E làm giảm nguy cơ xơ cứng thành động mạch, một trong những nguyên nhân chính dẫn đến bệnh tim.

Các nhà nghiên cứu tiến hành khảo sát trên 314 người đàn ông và 142 phụ nữ ở độ tuổi từ 20 đến 95, chia làm hai nhóm. Nhóm thứ nhất trên 58 tuổi và nhóm thứ hai từ 58 tuổi trở xuống. Kết quả cho thấy lượng vitamin E đưa vào cơ thể giúp máu lưu thông tốt hơn và giảm nguy cơ tăng cholesterol trong máu. Và như thế, nó góp phần làm giảm đáng kể nguy cơ mắc bệnh tim.

Vitamin C, E có thể dễ dàng tìm thấy trong rất nhiều loại thức ăn tự nhiên thông thường như các loại rau quả: Cam, chanh, quýt, dưa hấu, dâu, cà chua, khoai tây, tiêu, ớt, bắp cải...

Một nguyên tắc chung hiện nay đã được các nhà khoa học cùng nhất trí, là những thức ăn có lượng chất béo cao và làm tăng lượng cholesterol trong máu là kẻ thù của bệnh tim. Để thiết thực chống lại nguy cơ mắc bệnh tim, các nhà khoa học khuyến khích một chế độ ăn thay thế hẳn lượng đạm từ thịt động vật bằng lượng đạm thực vật, nghĩa là từ các loại rau, đậu, củ, quả... Các loại mầm ngũ cốc như giá đậu, mộng lúa mì, lúa mạch... Đều được đánh giá cao vì chúng rất giàu đạm thực vật.

Sự luyện tập nhẹ nhàng vẫn có ích, từ lâu chúng ta vẫn biết rằng những chương trình rèn luyện sức khỏe được áp dụng thường xuyên và triệt để sẽ giúp bạn tránh xa được nguy cơ mắc bệnh tim. Tuy nhiên, nếu bạn không đủ sức khỏe để tham gia một trong những chương trình như thế, bạn vẫn có thể tìm được một phương thức nhẹ nhàng nào đó thích hợp hơn cho mình.

Những cuộc nghiên cứu mới cho thấy rằng sự luyện tập nhẹ nhàng đều đặn vẫn mang lại kết quả tốt cho sức khỏe, dựa trên số ca-lo-ri mà cơ thể phải tiêu tốn đi trong thời gian luyện tập.

Giả sử như, thay vì chạy tại chỗ 30 phút mỗi ngày - nghĩa là hơi quá sức của bạn - bạn có thể chỉ cần đi bách bộ mỗi lần 10 phút và 3 lần trong một ngày. Hiệu quả đạt được cũng sẽ tương tự như nhau. Mục tiêu cụ thể của bạn ở đây là phải sử dụng từ 1.200 cho đến 2.000 ca-lo-ri năng lượng cơ thể cho việc luyện tập. Với kết quả nghiên cứu mới này, bạn có thể yên tâm chọn cho mình một phương thức rèn luyện cơ thể thích hợp hơn mà không phải gắng sức thái quá.

Nhịn ăn sáng dễ có nguy cơ lên cơn đau tim

Tất nhiên là điều này chỉ xảy ra khi bạn là người đã mắc bệnh tim. Các bác sĩ từ lâu đã nhận biết một điều là hầu hết các cơn đau tim thường xảy ra vào buổi sáng, khoảng vài giờ sau khi bệnh nhân thức dậy. Mặc dù vẫn chưa giải thích chính xác được hiện tượng này, các nhà nghiên cứu vẫn tin rằng những thay đổi của cơ thể vào buổi sáng đã gia tăng nguy cơ lên cơn đau tim.

Một số người cho rằng huyết áp tăng cao hơn và nhịp tim nhanh hơn khi thức dậy là nguyên nhân của vấn đề. Một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng độ bám dính của các chất cặn trong máu tăng cao hơn vào buổi sáng, và do đó làm tăng khả năng lên cơn đau tim.

Một cuộc nghiên cứu tại Memorial University, Newfoundland ở Canada cho thấy là những nguy cơ lên cơn đau tim vào buổi sáng tăng lên đáng kể nếu bệnh nhân không ăn điểm tâm hoặc nhịn ăn vào buổi tối trước đó, vì những phân tích máu cho thấy độ bám dính của các chất cặn trong máu tăng lên cao hơn bình thường.

Thức dậy trong đêm là một điều nguy hiểm

Để đi đến kết luận này đối với những người mắc bệnh tim, các nhà khoa học đã tiến hành một cuộc khảo sát cụ thể với 30 bệnh nhân mắc bệnh tim tình nguyện tham gia.

Trong cuộc khảo sát này, tất cả bệnh nhân được mang những máy theo dõi nhịp tim. Máy này tương tự như một máy cát-sét nhỏ bạn vẫn thường đeo bên sườn. Một thiết bị nhỏ được gắn áp vào ngực và giúp các nhà khoa học ghi nhận một cách chi tiết mọi diễn biến xảy ra với tim bệnh nhân.

Trong số 30 người, có 21 người thức dậy trong đêm để đi tiểu, hoặc lấy một ly nước uống, hoặc làm một việc gì đó mà phải đi ra khỏi giường. Có người thức dậy đến hai lần trong đêm, và tổng số lần thức dậy của 21 người ấy được ghi nhận là 36 lần. Trong 36 lần ấy, có đến 24 lần bệnh nhân bị lên cơn đau tim. Nghĩa là chiếm một tỷ lệ 2 trên 3 lần.

Người bệnh tim thức dậy trong đêm để đi ra ngoài vì một lý do nào đó rõ ràng là rất nguy hiểm. Nguyên nhân tạm thời được giải thích theo với những phản ứng thích nghi của cơ thể. Khi bệnh nhân ngủ, tất cả mọi bộ phận trong cơ thể đều đi vào trạng thái nghỉ ngơi. Khi bệnh nhân đột ngột thức dậy trong đêm, các bộ phận cần một thời gian để “thức dậy”, trong đó có tim và các mạch máu. Để thích nghi ngay với trạng thái thức dậy, tim đòi hỏi một lượng máu lớn hơn, vượt quá sức cung cấp của các động mạch - vốn đang trong tình trạng bệnh hoạn - và làm cho cơn đau tim bộc phát.

Để khắc phục mối nguy hiểm này, người bệnh nên hạn chế việc thức dậy và đi ra khỏi giường ngủ vào ban đêm. Nếu bắt buộc phải làm thế, thì nên thức giấc và nằm yên một lúc, sau đó ngồi dậy một lúc nữa, rồi từ từ ra khỏi giường. Việc kéo dài thời gian như vậy cho phép cơ thể có đủ điều kiện để không “thức dậy” quá đột ngột, dẫn đến cơn đau tim.

Người già cần sự ấm áp

Một cuộc nghiên cứu với sự tham gia của 100 người già từ 75 tuổi trở lên, kéo dài trong một năm, đã đi đến kết luận như vậy.

Các nhà nghiên cứu nhận ra rằng khi nhiệt độ môi trường xuống thấp nhất, lượng fibrinogen trong máu người già có khả năng tăng cao nhất. Fibrinogen làm tăng khả năng đông máu, tạo ra nguy cơ dễ bộc phát những cơn đau tim. Trong những tháng lạnh nhất trong năm, hàm lượng fibrinogen trong máu người già tăng lên đến 23% cao hơn so với những tháng mùa hè.

Một trong những lý do được đưa ra để giải thích hiện tượng này là cơ thể người già kém khả năng thích nghi với nhiệt độ môi trường, nên chịu ảnh hưởng của nhiệt độ thấp mạnh mẽ hơn những người trẻ tuổi.

Như vậy, điều có thể làm được là hãy tìm mọi cách giữ ấm cho người già trong những tháng trời lạnh. Điều đó giảm đi một phần nguy cơ lên cơn đau tim của họ.

Tăng cân, giảm cân, đau tim

Đúng vậy. Các nhà nghiên cứu đã kết hợp được 3 yếu tố này với nhau như một hiện tượng thực tế, qua khảo sát 5.127 người ở độ tuổi từ 32 đến 62, trong vòng 2 năm.

Bạn có thể theo đuổi một chế độ ăn uống hoặc một chương trình luyện tập cơ thể thật chặt chẽ nhằm giảm bớt trọng lượng cơ thể.

Bạn có thể lên cân liên tục đến mức béo phì. Trong cả hai trường hợp này, bạn đều có may mắn hơn một trường hợp thứ ba. Đó là giảm cân, rồi tăng cân, rồi giảm cân... Khi ấy, bạn có nguy cơ chết sớm vì bệnh tim cao gấp hai lần so với những người khác.

Thật không may là rất nhiều người hiện nay rơi vào tình trạng nguy hiểm này. Họ mong muốn được giảm cân để có một ngoại hình đẹp hơn chẳng hạn, nhưng chẳng bao lâu, họ không duy trì được điều đó và tăng cân lại như cũ, hoặc thậm chí còn hơn thế nữa. Chu kỳ tăng giảm này liên tục lặp đi lặp lại trong nhiều năm mà họ không biết rằng mình đang có một mối đe dọa rất lớn về sức khỏe.

Các bác sĩ không giải thích được vì sao sự thay đổi tăng giảm trọng lượng cơ thể như thế lại gây nguy hiểm. Nhưng kết quả nghiên cứu của họ chỉ ra rằng thậm chí những người “béo phì” vẫn được xem là “an toàn” hơn những người biến động liên tục trọng lượng cơ thể. Một trong những nhận xét được đưa ra là cơ thể họ thường có khuynh hướng tích lũy chất béo nhiều hơn người thường. Chất béo cao là một nguyên nhân dẫn đến mắc bệnh tim.

Lời khuyên cho bạn ở đây là, nếu đã giảm cân, đừng để tăng cân lại nữa. Nhưng khôn ngoan hơn là đừng bao giờ áp dụng bừa bãi những chế độ ăn kiêng nhằm giảm cân mà không có ý kiến của y bác sĩ.

Các câu hỏi liên quan

Xin mời nói. Bạn muốn tìm gì ...