Cây Mỏ Quạ lấy vỏ sắc thuốc chữa lỵ
Còn gọi là mỏ quạ, mỏ ó, găng cơm, găng vàng, găng sơn, găng cườm, thiết thỉ mễ (Trung quốc)
Tên khoa học : Canthium parvifolium Roxb
Thuộc họ : Cà phê Rubiaceae
Cẩm xà lạc là tên vỏ cây này được xuất bán cho Trung quốc. tên này phổ biến ở tỉnh Quảng Bình là nơi được khai thác thu mua để xuất. tại những nơi khác tên mỏ quạ, mỏ ó phổ biến hơn. Cũng có nơi gọi là cây găng, tên mỏ quạ còn dùng để chỉ một cây khác, cần chú ý tránh nhầm.
A. Mô tả cây
Cẩm xà lặc là một cây nhỏ có gai dài từ 0,3-5cm hai đầu quặp lại gần giống như mỏ qụa, phía gốc gai có lông. Lá hình trứng thuôn dài mặt trên nhẵn, mặt dưới hơi có lông trên đường gân: phiến lá dài, cuống rất ngắn. hoa màu vàng hợp thành chùm ở kẽ lá từng 2-8 hoa. Cánh hoa 2-3mm. quả hạch hình cầu đường kính 8-10mm khi chín có màu vàng nhạt trong có hai ngăn mỗi ngăn chứa một hạt.
Mùa hoa và quả: tháng 10-12
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Mọc hoang ở khắp các tỉnh miền Bắc nước ta đôi khi được trồng làm hàng rào gai nhọn. còn thấy mọc ở Hoa Nam, Trung quốc, các nước nhiệt đới Châu Á.
Thường người ta đào rễ bóc lấy vỏ phơi khô để xuất, trước đây thu hái cả cành. Quả dùng để giặt quần áo thay xà phòng.
C. Thành phần hoá học
Chưa thấy tài liện nghiên cứu. sơ bộ thấy có Ancaloit và Saponozit.
D. Tác dụng và liều dùng
Chưa rõ Trung quốc mua vỏ rễ về để làm gì, số lượng mua cũng còn ít chưa đáng chú ý
Trong nhân dân thường dùng quả thay xà phòng để giặt quần áo, tơ lụa không chiu được kiềm của xà phòng. Vỏ quả rất đắng, muốn ăn thì phải loại bỏ vỏ.
Vỏ thân và cành dùng chữa lỵ, dùng dưới dạng thuốc sắc. Mỗi ngày dùng 5-10g.
Lá cây này được dùng giã nát đắp lên vết thương, nhưng ít được dùng hơn lá cây mỏ quạ thuộc họ dâu tằm.