Cây Điều Nhuộm trị tả lỵ giun sán

Cây Điều Nhuộm trị tả lỵ giun sán

Còn gọi là xiêm phung, cham pou, champuk shralok (Campuchia), som hu, som phu, kam tai, kam set (Lào), rocouyer annatto 
Tên khoa học Bixa orellana L.
Thuộc họ điều nhuộm Bixaceae.

A. Mô tả cây

Cây nhỏ đẹp, cao 4-5m. lá đơn mềm, nhẵn, hơi hình 3 cạnh, đầu nhọn, phía cuống hình tim, dài 12cm, rộng 7cm hay hơn, cuống lá phình ở đầu, dài 3-4cm. Hoa khá lớn, màu tía hoặc trắng, mọc thành chuỳ ngắn ở đầu cành. Bầu trắng, hai lá noãn với hai giá noãn mang nhiều noãn. Quả to, đỏ tía, hình cầu, trên mặt có gai mềm, mở bằng hai van, mỗi mảnh mang ở trong rất nhiều hạt. hạt hơi hình lập phương trên một cuống ngắn, xung quanh tễ nở ra thành một thứ áp hạt, ngắn màu đỏ 

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Cây nguồn gốc ở các vùng nhịêt đới Châu Mỹ, hiện được 
trồng phổ biến ở Ấn độ và nhiều nước khác 
Tại nước ta, Lào, Campuchia nhiều gia đình trồng lấy chất nhuộm màu. Người ta thu hái hạt cho ngay vào nước thật nóng, khuấy mạnh rồi để hạt lên một cái rây để xát, tách hết hạt và những tạp chất. được thứ cơm hạt để yên cho lên men và loại chất nhầy. Màu lắng xuống dưới, gạn lấy chất màu này, để cho hơi khô thì gói vào lá chuối thành từng bánh 1-2kg. chúng ta có chất màu mềm, mặt ngoài hơi xỉn, nhưng khi cắt thì giữa có màu tươi hơn. Chất này thì trên thị trường quốc tế trước đây người ta gọi là Rocu (Rocou hay Acnato-Arnatto của người Anh, Oelean của người Đức). nước ta hầu như chưa sản xuất loại chất màu này. Có khi để cho màu giữ được tươi, người ta cho thêm vào một ít nước tiểu 
Lá tươi đươc hái và dùng làm thuốc 

C. Thành phần hoá học

Trong cơm của hạt điều nhuộm có 20-30% nước, đường, một ít tinh dầu, tannin, 4-5% hợp chất carotenoit được Chereuil nghiên cứu từ 1833 và chiết được hai chất chủ yếu là bixin và orelin 
Bixin là este monometylic của một axit dicarboxylic gọi là norbixin. Hợp chất bixin thiên nhiên cis so với nối kép 3, không vững bền, dễ chuyển thành trans hay isobixin 
Bixin kết tinh trong axit axetic thành hình phiến màu đỏ tươi, tan trong các dung môi hữu cơ, trong dầu khi thêm axit sunfuric đặc sẽ chuyển thành xanh. Thủy phân kiềm cho norbixin. 
Hiện đã tổng hợp được bixin 
Năm 1937, Bachster và Cavallini còn chiết được từ dầu hạt có chứa bixin 2,5g chất không xà phòng hoá được và phần không hấp thu trên alumin hoạt hoá chiếm 0,58% chất dầu lục nhạt, vị và mùi đặc biệt, các tác giả đặt tên là bixola C18H30O. đây là một ancol olefinic sesquitecpenic có 4 nối kép gần như chất bixin, các chất tecpen. 
Bixin là một chất màu đỏ tươi, có tinh thể, orelin có màu vàng, không tin thể. Khi thêm axit sunfuric thì cả hai chất đều cho màu xanh 

D. Công dụng và liều dùng

Trước đây khi chưa có màu tổng hợp aniline, thì rocu là một chất màu quan trọng vì tươi đẹp, xà phòng không làm sạch, nhưng chịu ánh sáng thì kém. Hiện nay một số nơi còn dùng nhụôm lên lụa và sợi bông. 
Còn dùng trong công nghiệp vecni, xi đánh sàn, và nhất là độ tan trong chất béo, lại không độc và có tính chất của vitamin A, rocu được dùng để nhuộm bơ, pho mát (ngâm trong dầu vừng 2-3 giọt cho 1kg bơ). Nếu nhuộm nước thì dùng muối kiềm của norbixin.
Tại quê hương Châu mỹ, cơm và hạt được dùng làm thuốc tẩy giun.
Một số nơi dùng lá chữa lỵ, chữa sốt, sốt rét. Có khi sắc uống nhưng có khi người ta chỉ nấu nước cho bệnh nhân tắm, nước thấm qua da mà tác dụng. ngày uống 20-30g lá tươi sao khô. Dùng nấu nước tắm chữa sốt không kể liều lượng.

Các câu hỏi liên quan

Xin mời nói. Bạn muốn tìm gì ...