Câu hỏi thường gặp ở bệnh tiểu đường
1. Trẻ bị tiểu đường do những nguyên nhân gì?
Trả lời:
- Tiểu đường ở trẻ em đa phần là tiểu đường type 1.
Các yếu tố thuận lợi của tiểu đường type 1 ở trẻ em là di truyền từ cha mẹ, stress làm gia tăng các nội tiết tố liên quan đến đường huyết, nhiễm vi sinh vật (vi trùng, siêu vi, ký sinh trùng - trong môi trường, trong thực phẩm, trong một thời kỳ mắc bệnh nào đó), một số kháng thể có trong thức ăn và thuốc.
Các loại thuốc được xem là có liên quan đến tiểu đường bao gồm: Acid Nicotinic, Cortisone, Interferon, thuốc điều trị AIDS, ung thư, thuốc diệt chuột...
Một vài nghiên cứu còn đề cập đến yếu tố BSA (Bovin Serum Albumin) có trong sữa bò có thể tạo kháng thể chống lại tế bào beta của tuyến tụy gây thiếu insulin. Vì vậy cũng có khuyến cáo cho rằng ở trẻ dưới 12 tháng tuổi không nên cho dùng sữa tươi (sữa bò nguyên chất) mà cần dùng các sữa công thức đã được chế biến.
2. Bà mẹ đã mắc bệnh tiểu đường có nên mang thai?
Trả lời:
- Bà mẹ bị tiểu đường vẫn mang thai bình thường. Ngay cả những bà mẹ không hề bị tiểu đường nhưng con cũng có thể bị tiểu đường.
Tỉ lệ di truyền bệnh tiểu đường từ cha mẹ sang con chỉ khoảng 10-20%, thậm chí nếu bé có gen tiểu đường nhưng ăn uống và vận động hợp lý thì có khi cũng không hình thành tiểu đường.
3. Trẻ béo phì có dễ bị tiểu đường?
Trả lời:
- Tiểu đường tuýp 2 thường gặp ở người lớn trên 40 tuổi, ít gặp ở trẻ em, và thường xuất hiện trên cơ địa béo phì.
Tuy nhiên, béo phì không phải là nguyên nhân gây tiểu đường, chỉ là yếu tố thúc đẩy đến tiểu đường trên một cá thể mang yếu tố di truyền mà thôi.
4. Quà vặt và thức ăn nhanh ngày càng phổ biến, cách nào để trẻ tự tuân thủ chế độ ăn của người tiểu đường?
Trả lời:
- Ăn vặt, ăn ngọt không phải là nguyên nhân trực tiếp gây tiểu đường, mà chỉ làm gia tăng nguy cơ tiểu đường thông qua béo phì mà thôi.
Do đó, cần có kế hoạch kiểm soát cân nặng, không để trẻ tăng cân quá nhanh. Qua khỏi giai đoạn dưới sáu tháng tuổi, cần để trẻ tăng cân chậm lại, 200-300g mỗi tháng là mức trung bình. Chế độ ăn cần đầy đủ các nhóm thực phẩm bột, đạm, rau, béo một cách cân đối. Ăn nhiều rau quả tươi, uống đủ nước, không ăn nhiều chất béo và chất bột.
5. Ở trẻ, các biến chứng tiểu đường có khác với người lớn tuổi?
Trả lời:
- Tiểu đường chỉ được xác định bằng cách thử đường huyết. Vì vậy muốn tầm soát cần thử máu định kỳ (chứ không phải tìm đường trong nước tiểu, vì khi đã có đường trong nước tiểu thì thường là tổn thương đã nặng, khó điều trị để phục hồi). Dùng thuốc ngay khi phát hiện bệnh và duy trì điều trị lâu dài, có khi phải dùng insulin thay thế suốt đời. Kèm theo thuốc là chế độ dinh dưỡng phù hợp và vận động tích cực. Cần chú ý ngay từ khi tuổi còn rất nhỏ cũng phải tập cho trẻ thói quen vận động thường xuyên, tốt nhất là cho trẻ theo đuổi một môn thể thao nào đó ít nhất một giờ/ngày.
Biến chứng của tiểu đường không khác nhau giữa người trẻ và người lớn tuổi, tuy nhiên với trẻ em thường chỉ thấy xuất hiện biến chứng ở trẻ lớn (trên 10 tuổi) do tiểu đường đã tiến triển nhiều năm.
6. Các sai lầm thường thấy khi tự điều trị là gì?
Trả lời:
- Tiểu đường có khi phải dùng thuốc cả đời, vì vậy việc tự điều trị có thể làm gián đoạn việc điều trị đúng mức, làm bệnh tiến triển nhanh hơn, dễ có biến chứng hơn. Đến nay chưa có loại thuốc dân gian nào được xác định là thay thế được insulin trong điều trị tiểu đường type 1 ở trẻ em.
Nếu dùng thuốc đúng chỉ định và tuân thủ đúng việc theo dõi khi điều trị, người bệnh có thể chung sống lâu dài và hòa bình với căn bệnh mạn tính này.
7. Bảo vệ bàn chân ở người bệnh đái tháo đường thế nào?
Trả lời:
- Đái tháo đường nếu không được kiểm soát tốt sẽ dẫn đến các bệnh lý nguy hiểm khác như tim mạch, thận, mắt... và viêm nhiễm đôi bàn chân. Nhiều trường hợp do viêm nhiễm quá nặng có thể dẫn đến phải cắt cụt chi. Để bảo vệ bàn chân của người đái tháo đường tránh bị nhiễm khuẩn cần chú ý những yếu tố sau: Luôn mang giày dép mềm để tránh dẫm phải những vật nhọn, nên mang giày vừa chân, nên thay giày sau khi mang liên tục 4-5 giờ. Khi mang giày phải có tất, nên dùng tất cotton hay chất len, nên thay tất thường xuyên nếu ra nhiều mồ hôi. Rửa chân sạch sẽ hàng ngày và tránh ngâm chân lâu trong nước, nếu bị khô nẻ ở chân thì dùng kem dưỡng ẩm. Quan tâm đến các vết chai ở chân, không để hình thành các nốt phỏng rộp. Khi bị viêm loét cần được đi khám và được hướng dẫn điều trị. Bị đái tháo đường thì không chỉ bảo vệ bàn chân mà còn cần phải kiểm soát đường huyết chặt chẽ để tránh các biến chứng khác. Dù điều kiện sống ở nông thôn hay ở thành phố thì việc chủ động phòng ngừa bệnh vẫn là quan trọng nhất.
8. Đái tháo đường ở phụ nữ mang thai
Tôi đang mang thai và bị đái tháo đường. Tôi rất băn khoăn không biết có nên giảm cân để điều chỉnh đường huyết. Nếu tiếp tục tăng cân, tôi rất sợ có những biến chứng xấu xảy ra do không kiểm soát được đường huyết.
Xin bác sĩ cho tôi lời khuyên tốt nhất để vừa chữa được bệnh đái tháo đường, vừa không gây ảnh hưởng đến thai nhi.
Trả lời:
- Đái tháo đường ở phụ nữ đang mang thai rất dễ có những biến chứng thai sản. Sức khỏe của người mẹ cũng bị đe dọa trước những biến chứng đái tháo đường, vì vậy đòi hỏi phải có sự chăm sóc và điều trị.
Những bệnh nhân đái tháo đường khi có thai, cần điều trị tình trạng tăng đường huyết, theo dõi đường huyết để điều chỉnh được nồng độ đường huyết bằng cách điều chỉnh chế độ ăn và insulin.
Trong chế độ ăn, do nhu cầu calo của người phụ nữ mang thai cao hơn so với người bình thường, nên không cần giảm calo để kiểm soát đường huyết, thậm chí còn được phép tăng cân ưong thời kỳ có thai. Tuy nhiên phải hạn chế thức ăn nhiều chất béo, mỡ động vật, hạn chế sử dụng đường hóa học và phải cung cấp đủ protein. Nên ăn mỗi ngày 3 bữa và một bữa phụ vào buổi tối trước khi đi ngủ.
Trong trường hợp điều trị đái tháo đường bằng chế độ ăn không còn hiệu quả thì phải kết hợp điều trị bằng insulin. Đối với bệnh nhân đã bị đái tháo đường trước thời kỳ có thai thường phải tiêm insulin 2 lần/ngày. cần theo dõi sát sao đường huyết, nên đo đường huyết vào lúc 9 giờ tối và 3 giờ sáng sau khi đã có bữa ăn phụ để đánh giá đúng nhu cầu insulin cần đưa vào.
Cần lưu ý, phụ nữ mang thai đang điều trị ngoại trú bằng insulin nhưng đường huyết không ổn định cần phải đưa bệnh nhân vào điều trị nội trú trong bệnh viện, đặc biệt thời gian trước và sau khi đẻ.
Bị đái tháo đường trong khi có thai, người bệnh thường chỉ cần các biện pháp điều trị thông thường, không cần phải có chế độ điều trị tích cực. Hầu hết bệnh nhân được điều trị như đái tháo đường type 2, bệnh nhân có thể không cần phải giảm cân nhưng không nên dùng các thuốc hạ đường huyết.
Biến chứng mãn tính của bệnh đái tháo đường rất quan trọng đối với bệnh nhân có thai, nhất là những người bị bệnh này đã lâu. Đó là biến chứng võng mạc, bệnh nhân có thể bị nặng lên rất nhanh trong thời kỳ có thai, ảnh hưởng đến sức khoẻ của mẹ và con; biến chứng bệnh mạch máu lớn, vi mạch có thể làm giảm tuần hoàn nhau thai, đây là biến chứng đe dọa đến sự sống của thai nhi.
Vì những biến chứng nguy hiểm trên, người phụ nữ mang thai mà bị đái tháo đường ngoài chế độ dùng insulin, luôn cần quan tâm đến chế độ ăn. Không ăn quá nhiều đồ ngọt, chất béo, đường, nhưng phải đảm bảo dinh dưỡng cho thai nhi phát triển.
9. Mắc tiểu đường type 1: Béo tốt hơn gầy!
Tôi có bạn bị bệnh tiểu đường type 1, tôi nghe nói một chút cân nặng thừa sẽ rất tốt cho động mạch vành, có đúng không? Xin bác sĩ trả lời giúp.
Trả lời:
- Những người có bênh tiểu đường thường dễ bị bệnh tim mạch hơn những người không bị tiểu đường. Biến chứng tim mạch, bao gồm bệnh tim có thể là nguyên nhân hàng đầu dẫn tới tử vong cho những người mắc tiểu đường.
Tuy nhiên, đối với những người mắc tiểu đường type 1, dạng bệnh di truyền, thì cân nặng vượt chuẩn lại phản ánh việc điều trị bằng insulin là có hiệu quả tích cực và đây cũng là lý do giải thích vì sao những người có bệnh tiểu đường và thừa cân lại có tỉ lệ tử vong thấp hơn những người mắc tiểu đường nhưng gầy gò.
Theo dõi 315 bệnh nhân mắc tiểu đường type 1, những người đã tham gia nghiên cứu liên quan đến tiểu đường và tiến hành chụp CT mạch vành để kiểm tra mức độ vôi hóa (thủ phạm gây ra bệnh tim mạch) cũng như đánh giá chỉ số cơ thể BMI, vòng bụng, lượng mỡ bụng và lớp mỡ dưới da.
Nhìn tổng thể thì hiện tượng vôi hóa có cả những người béo và gầy nhưng 2/3 bệnh nhân có chỉ số BMI cao hơn chuẩn ít bị vôi hóa mạch vành hơn. Đặc biệt yếu tố cân nặng và hiện tượng vôi hóa tỉ lệ nghịch với nhau. Tức là những người có lớp mỡ dưới da nhiều thì hiện tượng vôi hóa cũng thấp hơn hẳn những người có ít mỡ dưới da.
Tất nhiên, đây mới chỉ là nghiên cứu của các nhà khoa học và họ cũng cảnh báo rằng không nên vội vã tuân theo khuyến nghị này trước khi có những nghiên cứu sâu và rộng hơn.
10. Hầu hết mọi người đều nghĩ rằng chỉ có người lớn mới mắc bệnh tiểu đường nhưng trên thực tế thì đã có rất nhiều trẻ bị căn bệnh nguy hiểm này. Vậy làm thế nào để phòng tránh và nếu bị tiểu đường, trẻ cần được chăm sóc như thế nào?...
Trả lời:
- Tiểu đường type 1 là loại tiểu đường thường gặp ở trẻ em, chiếm 90 - 95% trẻ dưới 16 tuổi. Đó là lý do tại sao tuyến tụy không thể sản sinh insulin.
Tiểu đường type 1 được phân loại giống như một bệnh tự động miễn dịch, điều đó có nghĩa là hệ thống miễn dịch của cơ thể sẽ tấn công vào chính mô hoặc một trong những tổ chức tế bào của cơ thể. Khi mắc tiểu đường type 1 thì insulin - sản sinh tế bào ở các tuyến tụy bị phá huỷ.
Quan trọng nhất là bạn phải kiểm soát chặt chẽ chế độ ăn của trẻ, không nên cho trẻ ăn quá nhiều đồ ngọt, béo... Hãy cho trẻ dùng thuốc theo đúng chỉ định của bác sĩ, kết hợp với một chế độ tập luyện phù hợp.
11. Bệnh tiểu đường có phổ biến ở trẻ em không?
Trả lời:
Bệnh tiểu đường ở trẻ không phổ biến lắm, nhưng có rất nhiều thay đổi rõ rệt về số lượng trẻ mắc bệnh gia tăng trên thế giới:
Ở Anh và Wales: 17/100.000 trẻ mắc tiểu đường mỗi năm.
Ở Scotland con số này là: 25/100.000 trẻ.
Ở Finland: 43/100.000 trẻ.
Ở Nhật: 3/100.000 trẻ.
30 năm qua số lượng các trường hợp mắc tiểu đường ở trẻ đã tăng gấp 3 lần. ở châu u và Mỹ, tiểu đường type 2 đã từng thấy lần đầu ở những người trẻ.
Đó có thể là một phần lý do xu hướng gia tăng trẻ béo phì trong xã hội của chúng ta. Nhưng bệnh béo phì cũng không thể giải thích được hoàn toàn số lượng mắc tiểu đường type 1 ở trẻ ngày càng cao.
12. Lý do gì khiến nhiều trẻ em lại mắc bệnh tiểu đường?
Trả lời:
Cũng như những người trưởng thành, lý do mắc tiểu đường ở trẻ nhỏ không được biết đến một cách cặn kẽ. Nó có thể liên quan đến gen và môi trường sống.
Phần lớn trẻ đều có khả năng mắc tiểu đường type 1, không phụ thuộc vào việc trẻ đó được sinh ra trong một gia đình có tiền sử mắc bệnh tiểu đường.
Bên cạnh đó, một chế độ chăm sóc quá mức và không phù hợp cũng là một trong những nguyên nhân đáng chú ý.
13. Bệnh tiểu đường có những triệu chứng gì? Làm sao có thể phát hiện sớm bệnh này?
Trả lời:
- Triệu chứng chính ở trẻ em cũng tương tự như người lớn. Chúng có dấu hiệu xuất hiện trong một vài tuần như:
+ Khát nước.
+ Mệt mỏi.
+ Giảm cân.
+ Thường xuyên đi tiểu.
Ngoài ra chúng còn có các triệu chứng khác đối với trẻ như:
+ Đau bụng.
+ Đau đầu
+ Có vấn đề về hành vi cư xử khác thường.
Thỉnh thoảng bệnh tiểu đường nhiễm axit xuất hiện trước khi bệnh tiểu đường được chẩn đoán, mặc dù điều này ít xảy ra do hiện nay người dân có hiểu biết khá tốt về các triệu chứng của bệnh.
Các bác sĩ cũng nên cân nhắc kỹ lưỡng khả năng mắc bệnh tiểu đường ở bất kỳ trẻ nào mà không hề liên quan đến tiền sử bệnh tật của gia đình hoặc đau bụng trong một vài tuần.
Nếu bệnh tiểu đường được chẩn đoán, những đứa con của bạn cần phải tham khảo những điều đặc biệt về tiểu đường của trẻ em.
14. Tiểu đường được chữa trị như thế nào cho trẻ?
Trả lời:
- Việc chăm sóc bệnh tiểu đường ở trẻ thông thường được điều trị bởi bệnh viện hơn là bác sĩ đa khoa của họ.
Hầu hết trẻ em mắc tiểu đường cần được điều trị insulin, cần được cung cấp insulin hàng ngày (tác dụng nhanh và chậm) và tăng lượng insulin theo tuổi.
Hiện nay có nhiều loại insulin có thời gian tác dụng nhanh chậm khác nhau, do đó, việc điều trị cần tuân thủ nghiêm ngặt theo chỉ định của bác sĩ.
Thường trong những năm đầu sau khi chẩn đoán bị bệnh, con bạn có thể chỉ cần một lượng nhỏ insulin. Đây được coi là thời kỳ đầu tiên của bệnh.
Cũng như điều trị insulin, điều chỉnh lượng đường glucose tốt và tránh “hypos” (giảm lượng đường trong máu) là rất quan trọng. Vì có nhiều loại bệnh tiểu đường phức tạp tăng thêm cùng với bệnh tiểu đường đang mắc phải trong thời gian dài mắc bệnh.
15. Cha mẹ có thể làm gì giúp con của mình?
Trả lời:
- Chung sống với bệnh tiểu đường thực chất là một cuộc chiến về mặt tâm lý, đặt các gia đình trong tình trạng căng thẳng. Vậy nên, phải có những điều trị đúng đắn, tích cực. Điều này có thể từ bác sĩ đa khoa của gia đình bạn, bệnh viện hoặc sự giúp đỡ của xã hội.
Sự hiểu biết tất cả những điều khác nhau về bệnh tiểu đường và việc điều trị đòi hỏi kiên nhẫn sẽ là rất khó nhưng điều này sẽ có lợi cho con bạn và cuộc sống gia đình bạn.
Những cách sau giúp bạn hiểu biết thêm về bệnh tiểu đường:
- Học cách tiêm insulin như thế nào. Insulin thường được tiêm ở bụng hoặc bắp đùi.
- Nhận biết các triệu chứng về glucose trong máu thấp (hạ đường huyết), bệnh tiểu đường nhiễm axit và biết cách khắc phục nó.
- Đảm bảo rằng đường glucose luôn luôn có sẵn trong nhà.
- Luôn đo mức độ glucose trong máu và dạy cho con bạn biết phải làm gì ngay khi chúng đã lớn.
- Dạy cho con bạn cách tiêm insulin như thế nào.
- Gặp bác sĩ thường xuyên để kiểm tra tình trạng bệnh và đặc biệt nếu con bạn bị ốm vì bất cứ lý do gì - để được điều trị và có những hướng thay đổi thích hợp.
- Thông báo cho nhà trường và bạn bè con bạn về các triệu chứng của hạ đường huyết và cách họ phải làm gì khi gặp trường hợp đó.
- Tiếp xúc với những người bị mắc tiểu đường xung quanh để có sự giúp đỡ hơn.
16. Chế độ ăn kiêng như thế nào?
Trả lời:
- Các chuyên gia dinh dưỡng là nhân vật không thể thiếu trong quá trình điều trị. Nhưng quan trọng hơn, cha mẹ phải giúp con mình thực hiện được chế độ ăn dinh dưỡng cân bằng tốt cho sức khỏe, đặc biệt là nhiều chất xơ và carbohydrates, hạn chế ăn bánh kẹo ngọt.
Giúp con bạn có những hiểu biết về phản ứng của cơ thể trong việc ăn uống, tiếp nhận insulin và ăn đồ ngọt điều độ ở mức có thể - được kèm theo hởi liều lượng insulin phải tiêm.
Không thể nói cụ thể về một chế độ ăn kiêng nào. Từng bệnh nhân cần có một chế độ ăn kiêng cụ thể. Vì vậy cần tham khảo ý kiến của bác sĩ điều trị.
17. Hoạt động thể lực như thế nào?
Trả lời:
- Hoạt động thân thể rất quan trọng đối với trẻ bị mắc tiểu đường, vì vậy hãy khuyên con bạn phải tập thể dục hàng ngày.
Hoạt động thân thể sẽ làm giảm lượng đường trong máu, vậy nên nếu con bạn phải tiêm insulin thì liều lượng cần đưỢc giảm xuống. Tốt nhất là cho chúng ăn bánh mỳ, nước hoa quả hoặc thức ăn cung cấp carbohydrates khác trước khi tập.
Tốt nhất là cho trẻ luyện tập nhẹ nhàng với các môn thể thao phù hợp với lứa tuổi của trẻ, bạn cũng nên tham khảo ý kiến của bác sĩ để lựa chọn chế độ tập luyện phù hợp.
18. Điều trị trong bao lâu?
Trả lời:
- Một người bị mắc tiểu đường từ nhỏ sẽ sống với chế độ ăn kiêng và uống thuốc lâu hơn một người mắc tiểu đường khi trưởng thành.
Bệnh tiểu đường chữa rất lâu và có độ rủi ro cao như những biến chứng ảnh hưởng đến mắt và tính khí con người.
Điều này thường bắt đầu sau khi dậy thì nhưng thường có liên quan đến cuộc sống sau này.
Thường xuyên kiểm tra những biến chứng ở giai đoạn sau bắt đầu khi trẻ được 9 tuổi. Từ đó kiểm tra thường xuyên hàng năm.
19. Bú mẹ - Bé giảm nguy cơ bị bệnh tiểu đường? Tôi nghe nói những trẻ bú mẹ ít bị thừa cân và bị bệnh tiểu đường hơn so với trẻ bú bình, thậm chí ngay cả khi mẹ của bé có bị thừa cân hay bị tiểu đường, có đúng không?
Trả lời:
- Dựa trên dữ liệu của 15.000 trẻ em tuổi từ 4 - 19 của Khoa Chăm sóc sức khỏe cộng đồng, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng: mỗi tháng bú mẹ sẽ giúp giảm nguy cơ thừa cân là 4%. Trẻ bú mẹ trong 9 tháng sẽ giảm được 34% nguy cơ béo phì trong suốt thời thơ ấu so với trẻ bú bình.
Phát hiện này là bằng chứng quan trọng về việc bú mẹ có thể bẻ gãy "sự di truyền" béo phì và tiểu đường ở trẻ sơ sinh với những người mẹ bị mắc các bệnh này. Điều quan trọng là những người mẹ bị tiểu đường và có nguy cơ bị bệnh này nên biết rằng có rất nhiều cách để con cái không bị mắc các chứng bệnh như họ.
Như vậy, có thể nói bú mẹ là bước quan trọng đầu tiên để giảm nguy cơ béo phì và tiểu đường type 2.
Hiện có hơn 12,5 triệu trẻ em và thiếu niên ở Mỹ bị thừa cân và tỉ lệ này tăng nhanh kể từ năm 1980. Tăng tương ứng là bệnh tiểu đường type 2, một căn bệnh có liên quan với thừa cân và béo phì, trước đây rất hiếm gặp ở trẻ nhỏ và thanh thiếu niên.
20. Có phải ai bị tiểu đường cũng yếu? Tôi có người bạn gái, cô ấy tuyên bố những ai bị tiểu đường là gạt khỏi danh sách theo đuổi vì chuyện đó "yếu" lắm. Xin cho hỏi có phải ai bị bệnh tiểu đường cũng bị yếu sinh lý? Đây có phải là triệu chứng phát hiện bệnh tiểu đường?
Trả lời:
- Theo những thống kê ở nước ngoài thì tình trạng rối loạn cương dương chiếm khoảng từ 20- 71% ở những người đàn ông bị bệnh tiểu đường. Nguy hại hơn nữa khi các nhà chuyên môn thấy rằng những người bị tiểu đường hay bị rối loạn dương cương cao gấp 3 lần và tình trạng rối loạn này lại nặng hơn so với những người không bị bệnh tiểu đường.
Tình trạng rối loạn cương dương ở những bệnh nhân bị tiểu đường xảy ra ở độ tuổi trẻ hơn và ngay trong giai đoạn sớm của bệnh. Có tới 56% số bệnh nhân tiểu đường bị rối loạn cương dương ngay trong 5 năm đầu tiên của bệnh và có rất nhiều trường hợp rối loạn dương cương là triệu chứng đầu tiên của bệnh tiểu đường.
Người bệnh khi đi khám tại một phòng khám nam khoa được xét nghiệm về đường máu và đường niệu mới biết mình có bị tiểu đường hay không.
Một trong những yếu tố nguy cơ quan trọng nhất của tình trạng rối loạn cương dương ở bệnh nhân tiểu đường là tuổi tác: bệnh nhân càng lớn tuổi, tình trạng bệnh càng nặng nề. ở những bệnh nhân tiểu đường trẻ tuổi có thể bị rối loạn cương dương khi sử dụng một số loại thuốc trị bệnh như: thuốc chống tăng huyết áp, thuốc tâm thần, thuốc chống co giật, thuốc nội tiết…
Ngoài ra, còn có những yếu tố nguy cơ khác thường thấy là; thời gian bị bệnh tiểu đường càng bị lâu càng dễ bị rối loạn cương dương; việc kiểm soát đường huyết không tốt do bệnh nhân không điều trị hoặc điều trị không đúng quy cách; bệnh nhân hút thuốc lá, nghiện rượu, trầm cảm hay bị các bệnh khác đi kèm.
21. Làm sao giữ được bản lĩnh đàn ông khi bị tiểu đường?
Trả lời:
a. Vì sao tiểu đường gây bất lực?
Chứng tiểu đường có liên quan đến nhiều bất thường về thể chất nhưng có hai nguyên nhân chính trực tiếp gây ra chứng bất lực. Trước hết đó là vấn đề thần kinh, chủ yếu là sự tổn thương thuộc hệ thống thần kinh chức năng, đặc biệt các dây thần kinh dương vật.
Các yếu tố khác như bệnh tim, tình trạng thiếu lưu lượng máu đến dương vật... cùng những biến chứng khác của tiểu đường cũng sẽ khiến người bệnh gặp nhiều khó khăn trong khả năng đạt được và duy trì sự cương cứng.
b. Có cải thiện được không?
May mắn là hiện có nhiều cách giúp quý ông bị tiểu đường áp dụng để ngăn chặn và thậm chí “tai qua nạn khỏi”. “Vấn đề trước tiên là kiểm soát bệnh tình (tiểu đường) nhằm phục hồi và gia tăng khả năng tình dục của bạn, trong đó vấn đề kiểm soát thể trọng, khống chế mức cholesterol, kiểm soát huyết áp và không hút thuốc... là đặc biệt quan trọng”.
Vì sự thay đổi phong cách sống như thế có thể đưa đến khả năng kiểm soát đường huyết tốt hơn, cải thiện đáng kể những biến chứng phức tạp của tiểu đường, trong đó có cả khả năng vực dậy “bản lĩnh đàn ông”.
Một vài nghiên cứu mới đây cũng cho thấy những ông quá nặng ký, nếu giảm cân được (40 pound hay hơn) thì có thể lấy lại phần nào “phong độ”. Bởi có nhiều trường hợp chứng bất lực thường gắn liền với bệnh béo phì, nên việc giảm cân có thể giúp cải thiện phần nào được vấn đề.
c. Liệu pháp nào hiệu quả?
Cùng với việc thay đổi phong cách sống, còn có một số loại biệt dược chống bất lực được chú ý. Ba loại thuốc phổ biến đang có mặt trên thị trường là Viagra, Cialis và Levitra tuy có cùng hiệu quả, nhưng dường như tác dụng khác nhau tùy theo cơ địa mỗi người. Đặc biệt, chúng không mấy hiệu quả ở các đối tượng bị tiểu đường, những người thường có các vấn đề nghiêm trọng về cương cứng. Song, hơn 50% quý ông bị tiểu đường có phản ứng tốt với cả 3 loại thuốc này.
Tuy nhiên, cũng cần cảnh báo rằng nhìn chung liệu pháp này chỉ tác dụng tốt khi bệnh nhân tiểu đường không bộc lộ các nguy cơ khác liên quan đến tim mạch.
d. Các chọn lựa khác?
Có nhiều phương pháp mới tỏ ra hiệu quả đối với chứng bất lực, như áp dụng liệu pháp bổ sung testosterone, một loại hormone sinh dục nam có thể cải thiện nhu cầu tình dục. Tuy nhiên, trừ một số bệnh nhân tiểu đường có mức testosterone thấp, liệu pháp này ít tỏ ra có hiệu quả.
Bên cạnh việc sử dụng thuốc, các phương pháp khác như tiêm thuốc, dụng cụ bơm từ bên ngoài hay phẫu thuật cấy ghép... cũng đang được áp dụng.
Sharlip khẳng định: “Hầu hết quý ông bị tiểu đường vẫn có thể duy trì được sự phong độ tình dục bằng việc thay đổi thói quen không có ích cho sức khỏe và tìm kiếm những cách chữa trị khác nhau khi mất khả năng cương cứng... !”.
22. Đàn ông làm gì để tránh ung thư và tiểu đường? Tập nặng ít nhất 3 giờ/tuần và kết thân với các sản phẩm sữa "gầy" là cách phòng chống ung thư tuyến tiền liệt và bệnh tiểu đường hiệu quả ở nam giới.
Trả lời:
Vận động tích cực có thể làm chậm tốc độ phát triển của bệnh ung thư tuyến tiền liệt và do đó làm giảm nguy cơ tử vong.
Những người tham gia nghiên cứu, trong đó có gần 3.000 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt, được hỏi về lượng thời gian tham gia các môn thể thao như đi dạo, đi bộ đường dài, chạy, đạp xe, bơi sải, chèo thuyền, tennis, racket hoặc các môn thể dục mềm dẻo. Kết quả cho thấy chỉ những người trên 65 tuổi vận động nhiều mới đạt được hiệu quả trên. Mối quan hệ này không được ghi nhận ở những người ít tuổi hơn.
Các sản phẩm sữa, đặc biệt là sữa gầy, có thể làm giảm nguy cơ phát triển bệnh tiểu đường ở nam giới, một bữa sữa ít béo hàng ngày giảm 9% nguy cơ. Có thể một số thành phần trong sữa ít béo giúp cơ thể sử dụng hiệu quả insulin để xử lý đường huyết.
23. Mắc bệnh tiểu đường do ngủ ít hay ngủ nhiều? Những người ngủ ít hơn 6 tiếng mỗi đêm rất dễ bị bệnh tiểu đường và giảm dung nạp glucose. Tuy nhiên, kể cả những người ngủ triền miên hơn 9 tiếng cũng khó tránh khỏi hậu quả này.
Trả lời:
- Cách bảo vệ sức khỏe tốt nhất là ngủ 7 - 8 tiếng/đêm. Tìm hiểu thời gian ngủ của gần 1.500 người trong độ tuổi 53 - 93. Họ đã kiểm tra lượng đường huyết và mức độ dung nạp glucose ở số người này. Các số liệu ghi nhận đưỢc là: 20,9% bị bệnh tiểu đường, 28,2% bị giảm dung nạp glucose, 27,1% ngủ ít hơn 6 tiếng/đêm, 8,4% ngủ dưới 5 tiếng và 8,6% ngủ trên 9 tiếng.
Khi đối chiếu với những người ngủ đủ 7-8 tiếng/đêm, nhóm nghiên cứu nhận thấy:
- Ngủ dưới 5 tiếng: Nguy cơ tiểu đường tăng 2,5 lần và giảm dung nạp glucose tăng 1,33 lần.
- Ngủ 6 tiếng; Nguy cơ tiểu đường tăng 1,66 lần, giảm dung nạp glucose tăng 1,58 lần.
- Ngủ trên 9 tiếng: Nguy cơ tiểu đường tăng 1,79 lần và giảm dung nạp glucose 1,88 lần.
Giấc ngủ rất quan trọng đối với sự chuyển hóa trong cơ thể.
Cần xem việc ngủ đủ giấc là một liệu pháp trị bệnh không dùng thuốc đối với bệnh nhân tiểu đường và giảm dung nạp glucose.
24. Tại sao bị tiểu đường? "Trong lần đi khám gần đây, tôi được chẩn đoán là đái tháo đường. Xin bác sĩ cho biết nguyên nhân nào dẫn đến bệnh này? Có thuốc gì chữa khỏi hẳn được không?".
Trả lời:
- Hiện khoa học chưa xác định được nguyên nhân chính xác của bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, dường như cả 2 yếu tố là di truyền và lối sống đều có vai trò nhất định trong quá trình hình thành bệnh. Trên thực tế, một số bệnh nhân tiểu đường sinh ra trong gia đình có nhiều người bị bệnh này. Nhưng ở một số khác, việc lười vận động, thói quen ăn uống không lành mạnh và béo phì làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2.
Hiện tại vẫn chưa có phương pháp điều trị hữu hiệu nào để chữa khỏi hẳn bệnh tiểu đường. Một vài thử nghiệm trong việc cấy ghép tế bào tiểu đảo tuyến tụy, nơi sản xuất ra insulin, tuy thành công trong việc tái lập sản xuất insulin nhưng lại có những tác dụng phụ do thuốc chống loại bỏ mảnh ghép gây ra. Việc sản xuất tụy nhân tạo cũng đang trong giai đoạn nghiên cứu. Liệu pháp gen, cụ thể là bơm gen chịu trách nhiệm sản xuất insulin vào các tố bào đã ngừng sản xuất insulin, cũng đang ở trong giai đoạn nghiên cứu.
Do đó, cách tốt nhất đối với bạn và những người mắc tiểu đường khác là kiểm soát thật tốt bệnh của mình bằng chế độ ăn, vận động và dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ.
25. Không phải cứ tiểu đường là kiêng chất béo Tôi bị đái tháo đường, liệu có phải kiêng chất béo hoàn toàn không?
Trả lời:
- Tiểu đường thường kèm mỡ máu cao nên bệnh nhân thường được thầy thuốc khuyên hạn chế chất béo. Tuy nhiên với những người không bị thừa cân, việc quá kiêng dầu mỡ sẽ dẫn đến nhiều tác hại.
Những hệ quả của việc kiêng hẳn chất béo:
Tăng đường huyết: Chất béo giúp thức ăn lưu lại ở dạ dày lâu hơn, sự tiêu hóa thức ăn chậm lại, do đó đường sẽ được hấp thu vào máu chậm hơn và đường máu sau ăn sẽ không bị tăng cao quá mức. Khi kiêng chất béo, để chống lại hiện tượng đói, bệnh nhân tiểu đường sẽ ăn bù bằng các nguồn chất bột khác như khoai sọ, bánh mì, bột ngũ cốc, ngô, khoai, sắn... và cuối cùng là đường máu sẽ tăng hơn nữa (tạm gọi hiện tượng này là “tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa”).
Thiếu chất: Các vitamin tan trong dầu như vitamin A, D, E, K... chỉ được hấp thu vào máu nếu có đủ dung môi là các chất béo. Tổ chức mỡ trong cơ thể không chỉ đơn thuần là nơi dự trữ chất béo mà thực sự là một cơ quan cực kỳ năng động và cũng cần thay cũ đổi mới mỗi ngày. Não của chúng ta được cấu tạo bởi 2/3 là chất béo.
Tuy nhiên, lượng chất béo chính xác cần ăn là bao nhiêu phụ thuộc vào các đặc điểm cá thể từng người như; thói quen ăn uống của bệnh nhân và gia đình, tình trạng béo phì, tăng mỡ máu, huyết áp, lượng đường máu... Với người có nhiều yếu tố nguy cơ tim mạch, lượng chất béo nên hạn chế. Với người gầy và không có yếu tố nguy cơ tim mạch, lượng chất béo có thể tăng lên trên cơ sở bệnh nhân dung nạp được chế độ ăn đó.
Một người nặng 50kg thường cần khoảng 30g mỡ mỗi ngày. 150g thịt nạc mới chỉ cung cấp 1/3 lượng chất béo cần thiết, số mỡ còn lại sẽ được cung cấp từ 2 thìa dầu thực vật. Nếu ăn 150g thịt ba chỉ, bạn sẽ được cung cấp đủ 30g mỡ. Hai lạng đậu phụ rán và 30g chả quế mỗi ngày cũng cung cấp đủ mỡ cho một người bình thường.
Vì đa số bệnh nhân tiểu đường ở vào độ tuổi trên 60 nên tỷ lệ chất béo có nguồn gốc động vật/thực vật nên là 50/50. Việc thay toàn bộ chất béo động vật bằng chất béo có nguồn gốc thực vật là không cần thiết (làm giảm vitamin A, D tan trong mỡ động vật; khó chế biến thức ăn...).
26. Bệnh tiểu đường có phải do đột biến gen không?
Trả lời:
- Các nhà khoa học mới công bố một nghiên cứu khoa học cho biết đột biến gen HNP4A trong cơ thể con người liên quan trực tiếp tới bệnh tiểu đường, đặc biệt ở cộng đồng thổ dân nước này.
Các nhà khoa học cho biết với chức năng định lượng insulin và glucose rất quan trọng trong chuyển hóa, HNF4A thường biến đổi theo qui trình được giới khoa học đặt mã là T1301.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu, các nhà khoa học nhận thấy có 15-20% bệnh nhân tiểu đường gốc thổ dân ở Mexico mang HNP4A biến thể, cao gấp ba lần mức thông thường. Có thể kết luận rằng đột biến gen HNP4A có tính cách di truyền giữa các thế hệ thổ dân và người lai bản xứ.
27. Một số cách bảo vệ cơ thể trước hiểm họa tiểu đường Tôi nghe nói tỉ lệ người bị tiểu đường ngày càng tăng. Vậy tôi phải làm gì để tự bảo vệ mình.
Trả lời:
- Tập luyện thể dục thể thao đều đặn là phương pháp hiệu quả giúp ngăn ngừa tiểu đường type 2 ở những người có nguy cơ cao. Nó cũng giúp cải thiện tình trạng dung nạp glucose ở những người đã được xác định là "tiền tiểu đường".
Bệnh tiểu đường type 2 chiếm khoảng 80% tổng số ca bệnh, nguyên nhân chủ yếu là insulin bị giảm tác dụng hoặc thiếu hụt. Đối tượng nguy cơ cao là người trên 40 tuổi, người béo phì hoặc thừa cân, nhất là béo bụng, người có anh chị em ruột hoặc bố, mẹ bị tiểu đường. Những bệnh nhân cao huyết áp, rối loạn mỡ máu, bệnh mạch vành, phụ nữ có tiền sử sinh con trên 4kg hoặc bị tiểu đường thai nghén cũng rất dễ bị tiểu đường type 2 :
Hiện có 3 phương pháp phòng bệnh đang được áp dụng cho những người có nguy cơ cao:
- Tập luyện thể thao:
Một nghiên cứu kéo dài trong 10 năm ở Mỹ thực hiện trên nam giới khỏe mạnh cho thấy, những người tập thể dục thể thao đều đặn ít bị tiểu đường type 2 hơn so với người không tập. Lợi ích này rõ rệt nhất ở nhóm người béo phì hoặc thừa cân.
Một nghiên cứu khác tiến hành 5 năm trên bệnh nhân giảm dung nạp glucose (tiền tiểu đường) cho thấy, những người tập thể dục đều đặn cải thiện được tình trạng dung nạp glucose, chỉ 11% trong số đó chuyển thành tiểu đường. Ngược lại, trong số những người không tập, 67% có dung nạp glucose kém hơn và 29% chuyển thành tiểu đường.
Một nghiên cứu phòng ngừa tiểu đường tiến hành trên 3.200 người béo phì cho thấy, việc tập thể dục tích cực kết hợp thay đổi chế độ ăn có vai trò quan trọng hơn cả thuốc Metformin trong phòng ngừa bệnh này.
- Giảm cân:
ở các bệnh nhân tiểu đường type 2, giảm cân sẽ giúp kiểm soát đường máu tốt hơn. Còn ở những người bị tiền tiểu đường, giảm cân sẽ giúp cải thiện tình trạng dung nạp glucose và ngăn ngừa sự tiến triển thành tiểu đường type 2.
Khi giảm cân, người bệnh phải cố gắng giảm được số đo vòng bụng, vì rất nhiều nghiên cứu đã chứng minh, béo bụng có vai trò gián tiếp rất quan trọng làm giảm tác dụng của insulin, gây ra tiểu đường. Những người có vòng bụng trên 90cm là các đối tượng cần giảm cân nhất.
- Dùng thuốc:
Có 3 nhóm thuốc đang được nghiên cứu, đánh giá xem liệu có thể phòng được tiểu đường type 2, ngăn ngừa hoặc làm chậm sự tiến triển từ giảm dung nạp glucose thành tiểu đường type 2 hay không đó là:
+ Metformin: Có tác dụng làm các cơ quan nhạy cảm hơn với insulin. Thuôc sẽ có hiệu quả cao hơn nhiều nếu kết hợp với tập thể dục thể thao đều đặn và thay đổi chế độ ăn.
+ Thiazolidinediones: Gồm các thuốc Rosiglitazone và Pioglitazone, làm tăng tác dụng của insulin tại mô cơ, giúp cải thiện tình trạng dung nạp glucose ở những người bị giảm dung nạp. Nó từng bị ngưng dùng do có tác dụng phụ nguy hiểm với những người bị bệnh gan hoặc tim. Gần đây, đã xuất hiện một loại thuốc kết hợp Metformin với Thiazolidinedione, có tên là Avandamet.
+ Các thuốc nhóm ức chế men chuyển; Ví dụ như Perindopril, Enalapril..., được dùng chủ yếu để điều trị các bệnh tim mạch như tăng huyết áp, suy tim. Một nghiên cứu lớn trên hàng nghìn người mắc bệnh tim mạch cho thấy, thuốc này còn có thể phòng ngừa tiểu đường type 2.
28. Phòng ngừa tiểu đường type 1
Trả lời:
Bệnh xuất hiện do tụy bị phá hủy, không sản xuất đủ insulin. Đây là loại bệnh tự miễn dịch, trong đó cơ thể tự sinh ra các kháng thể tấn công và phá hủy những tiểu đảo tụy, nơi chứa các tế bào sản xuất insulin. Những đối tượng có nguy cơ bị bệnh ĐTĐ type 1 được xác định là những người có kháng thể kháng tiểu đảo tụy…
Trong khi các phương pháp phòng bệnh tiểu đường type 2 khá phong phú thì các phương pháp phòng tiểu đường type 1 vẫn đang trong giai đoạn nghiên cứu. Chúng tập trung ngăn ngừa sự phá hủy các tế bào sản xuất insulin do cơ chế miễn dịch. Các nghiên cứu cho thấy, ở những người mắc bệnh này, dấu hiệu của sự phá hủy tế bào sản xuất insulin có thể xuất hiện từ 10 năm trước khi có triệu chứng lâm sàng của tiểu đường. Đã có nhiều nghiên cứu dùng các thuốc ức chế miễn dịch như Azathioprine, Cyclosporine để cố gắng chặn đứng quá trình tự miễn dịch và đạt một số kết quả khích lệ. Nhưng độc tính của thuốc lại khá cao.
Việc điều trị thay thế insulin sớm cũng hứa hẹn nhiều triển vọng. Một phương pháp khác là điều trị kết hợp các thuốc với nhau. Tuy nhiên, tất cả chúng đều đang trong giai đoạn nghiên cứu
29. Bệnh tiểu đường có thể chữa khỏi? Bệnh tiểu đường có thể chữa khỏi hoàn toàn không thưa bác sĩ? Gây ảnh hưởng đến các cơ quan nào? Giảm cân nặng có ảnh hưởng gì đến bệnh không? Chế độ ăn nên như thế nào?
Trả lời:
- Bệnh tiểu đường không thể chữa khỏi hoàn toàn. Để điều trị cần phải kết hợp dùng thuốc và chế độ ăn hợp lý mới có thể kiểm soát được lượng đường trong máu. Nếu được điều trị tốt, bệnh nhân sống khỏe mạnh bình thường. Nếu điều trị không đúng hoặc không điều trị thì đường máu sẽ tăng lại. Tiểu đường lâu năm sẽ đưa đến các biến chứng: mờ mắt, suy tim, suy thận, cao huyết áp, viêm tắc động mạch gây hoại tử chi, nhiễm trùng... ở các bệnh nhân dư cân thì việc giảm cân sẽ tốt cho điều trị bệnh.
30. Vì sao bị đái tháo đường? Tôi năm nay 60 tuổi, nặng 58kg, sức khỏe tốt, thường xuyên chơi bóng bàn, đi bộ. Nửa năm trở lại đây, tôi thấy cơ thể không được khỏe, hay uống nước và sụt 3kg, đi khám bệnh, bác sĩ chẩn đoán bị đái tháo đường. Vậy những nguyên nhân nào dẫn đến bệnh đái tháo đường, thưa bác sĩ?
Trả lời:
Trong tiến trình tiêu hóa, cơ thể lấy carbohydrate từ thực phẩm như bánh mì, gạo, mì sợi, rau, hái cây và sữa để tạo thành những phân tử đường khác nhau. Một trong các loại đó là glucose, nguồn năng lượng chính của cơ thể. Glucose được hấp thu trực tiếp vào máu sau khi ăn, nhưng nó không thể đi vào trong tế bào mà không có sự giúp đỡ của insulin, một hormon được tiết ra bởi tuyến tụy. Tụy là cơ quan nằm ở phía sau dạ dày. Khi nồng độ glucose trong máu tăng, chúng phát tín hiệu cho tế bào beta của tuyến tụy phóng thích ra insulin. Insulin sẽ đến “mở cổng” để glucose đi vào trong tế bào. Điều này giúp cho lượng glucose trong máu không tăng cao có thể gây nguy hiểm cho cơ thể. Khi nồng độ glucose trong máu xuống thấp, tuyến tụy sẽ ngừng bài tiết insulin. Gan là nơi dự trữ glucose dư thừa dưới dạng glycogen. Khi nồng độ glycogen trong máu xuống thấp, gan sẽ chuyển glycogen dự trữ thành glucose và phóng thích nó vào trong dòng máu. Khi chức năng của tuyến tụy bình thường, lượng glucose trong máu dao động đáp ứng với một số các yếu tố, bao gồm loại thực phẩm chúng ta ăn vào, hoạt động thể lực, stress và nhiễm khuẩn. Những mối liên quan phức tạp của insulin, glucose, gan và những hormon khác bảo đảm cho lượng đường trong máu trong giới hạn cho phép. Tuy nhiên, thỉnh thoảng điều này không hoàn toàn đúng. Hoặc cơ thể không sản xuất đủ lượng insulin để giúp đưa glucose vào trong tế bào, hoặc bản thân các tế bào trở nên đề kháng với insulin. Và hậu quả là tăng nồng độ glucose trong máu gây nên bệnh đái tháo đường.