Cận lâm sàng cho thực quản
1. Đo áp lực thực quản
Mục đích nghiên cứu vận động thực quản, để xác định trương lực và sức đề kháng của cơ vòng thực quản. Thực hiện bằng catheter có lỗ ở bên và cho truyền dòng nước chảy liên tục. Sự biến đổi của áp lực truyền tương quan với sự biến đối áp lực trong lòng thực quản. Để phân tích vận động co và dãn lúc nghỉ và khi nuốt, nuốt không có nước bọt gọi là nuốt khô, và nuốt nước còn gọi là nuốt uất. Cân đo áp lực đồng thời ở nhiều mức cách nhau 5cm, thời gian đo kéo dài khoảng 30 phút. Có thế bổ sung bằng nghiệm pháp kích thích bằng cách truyền vào thực quản acid chiohytiric hoặc bằng kích thích đau bằng cách căng 1/3 giữa thực quản bằng bóng. Hiện nay, đã có máy để cùng lúc đo áp lực và ph thực quản nhất là đoạn dưới thực quản liên tục trong 24 giờ.
Chỉ định:
- Cơn đau giả thắt ngực với điện tâm đồ bình thường.
- Khó nuốt, nhưng nội soi bình thường.
- Để phát hiện các tổn thương thần kinh cơ thực quản.
2. Đo pH thực quản
Bằng một điện cực thủy tinh nối với một máy pH kế, có thể theo dõi pH liên tục trong 24 giờ. Thực hiện bằng cách đưa điện cực vào dạ dày, sau đó kéo dần ra, khi nào thấy ph tăng đột ngột lên nhiều đơn vị, chứng tỏ điện cực nằm trong thực quản, thường đo ở vị trí 5cm trên tâm vị.
Chỉ định: được dùng trong trào ngược dạ dày - thực quản.
1. Thăm dò trào ngược dạ dày - thực quản bằng chụp nhấp nháy.
Bằng cách theo dõi đồng vị phóng xạ sau khi đưa vào thực quán dịch treo sulfur có gắn Technitium 99.
3. Nghiệm pháp Berstem
Bằng cách phân tích triệu chứng của bệnh nhân khi tưới HCI 0,1N vào lòng thực quản. Nếu có viêm thực quản thì sẽ có cảm giác nóng rát.
4. Hình ảnh học
Chụp thực quản baryt cần thực hiện với baryt mịn có độ nhờn cao (có thể trộn với lòng trắng trứng gà), nếu thuốc qua quá nhanh, có thể cho bệnh nhân chụp phim ở tư thế nằm. Trong phim tráng lớp lớp mỏng, có thế thấy các nếp niêm mạc, thường dùng trong trường hợp dãn tĩnh mạch trướng thực quản, thường gặp ở 1/3 dưới thực quản với hình ảnh tính mạch dãn lớn ngoằn ngoèo như trong trường hợp xơ gan. Trong viêm teo thực quản, có hình ảnh chít hẹp đồng tâm; trong ung thư thực quản có hình ảnh choán chỗ của khối u hoặc hình ảnh hẹp không đồng tâm với thành nham nhở, hoặc có vùng nhiễm cứng. Hình ảnh túi thừa lớn Zenker với cuống và có mức nước và hơi.
Hình ảnh tổn thương từ bên ngoài: đè vào thực quản như trong trường hợp nhĩ trái to, phình quai động mạch chủ, khối u trung thất.
5. Soi thực quản
Chủ yếu được dùng để chẩn đoán các bệnh viêm loét thực quản, đặc biệt trong viêm loét thực quản do chất cháy bỏng, thường gây viêm teo chít hẹp thực quản, trong viêm thực quản do nấm, thường có các màng trắng dính thường gặp do bội nhiễm trong AIDS. Trong phình quai động mạch chủ có hình ảnh u chấn, có nhịp đập. Trong dãn tĩnh mạch trướng thực quản giúp phân độ theo Savary. Trong Ung thư thực quản giúp chẩn đoán vị trí, thường kèm theo sinh thiết để giúp chẩn đoán xác định, độ lan rộng theo bề mặt và loại ung thư, có thế phối hợp với nhuộm toludin ở vùng nghi ngờ.
6. Siêu âm thực quản qua nội soi
Đây là xét nghiệm có giá trị giúp chẩn đoán sớm, đặc biệt ung thư hạ niêm mạc, hoặc các di căn ung thư ở chung quanh thực quản.