Cận lâm sàng cho đại tràng
1. Đo áp lực trực đại tràng
Đo áp lực cơ vòng hậu môn khi nghi, khi co do chú ý, và khí kích thích; đồng thời, đánh giá sự nhạy cảm tmc tràng khi căng ra. Thực hiện bằng ống thông Ballonet cho phép đo đồng thời áp lực ở phần cao do cơ vòng hậu môn trong và phần thấp do cơ vòng hậu môn ngoài. Áp lực khi nghi là sau khi đã thích nghi 10 phút, áp lực bình thường là 60 - 90 cm H20, áp lực này thay đổi theo từng lứa tuổi. Co cơ chủ động làng tăng nhanh áp lực tạm thời, chí kéo dài vài giây, vì làm mệt cơ. Tác dụng căng trực tràng dưới áp lực thấp 20 - 50ml nước, cho phép đánh giá ức chế trực tràng hậu môn.
Trong trường hợp không giữ được áp lực khi nghi của cơ vòng hậu ngôn giảm, giảm trương lực cơ vòng có thể do tổn thương cả 2 cơ, nhưng thường là do cơ vòng trong đảm nhiệm. Trong một số trường hợp táo bón là do tăng trương lực cơ vòng. Trong trường hợp táo bón nặng, lợi ích chính của đo áp lực là để chẩn đoán bệnh Hirschprung làm mất phản xạ ức chế trực tràng hậu môn.
2. Điện cơ đồ của cơ vòng ngoài
Thực hiện nhờ kim cắm vào bó cơ, người ta ghi được hoạt động thường xuyên, tăng cường khi, co cơ tự ý và khi đáp ứng căng trực tràng vừa phải, nhưng ngược lại bị ức chế tạm thời khi co thành bụng mạnh, như khi đi đại tiện. Trong trường hợp bệnh thần kinh, số lượng sợi cơ chức năng bị giám, thì điện cơ đồ cũng giúp đánh giá sự co nghịch lý của cơ vòng ngoài.
3. Biểu đồ bài phân
Nghiên cứu X-quang tĩnh và động sự bài phân của bóng trực tràng bằng cách chụp nhuộm bóng trực tràng với hỗn hợp 400ml dung dịch bột khoai tây trộn với baryt và 10 - 15ml bột đối quang. Phim chụp ở tư thế bệnh nhân ngồi lúc nghỉ và lúc bài phần. Trên phim nghiêng xác định góc trực đại tràng, độ dốc của sàng hội âm khi rặn, xuống niêm mạc trực tràng-đại tràng sigma, sa trực tràng hoặc sa sàng hội âm. Biểu đồ bài phân cho thấy sự co cơ vệ-trục tràng nghịch lý lúc cố gắng tống phân đó là không đều (anisme).
4. Thăm dò vận động đại tràng
Bằng kỹ thuật Couturier và Chaussade đơn giản và dễ thực hiện. Uống polyethylen có chất chỉ điểm phóng xạ trong 3 ngày liên tiếp, vào một giờ nhất định, rồi theo dõi diễn biến của chất đồng vị phóng xạ vận chuyển qua ruột bằng máy đếm đồng vị phóng xạ.
5. Thời gian vận chuyển qua đại tràng
Đế chẩn đoán táo bón hay ỉa chảy, thường sử dụng phương pháp Devroede, bằng cách cho bệnh nhân uống 20 liều chuẩn chất cản quang có đánh dấu phóng xạ, rồi theo dõi diễn biến của thuốc cản quang bằng chụp phim bụng liên tiếp qua 3 giai đoạn đại tràng phải, đại tràng trái, và đại tràng tiểu khung và đo chất phóng xạ trong từng khu vực trên, ở người lớn, thời gian vận chuyển tối đa đến các đoạn ruột trên là: 38; 37 và 34 giờ. Cho kết quả tương tự siêu âm, nó còn giúp đánh giá sự xâm nhập và di căn cứ ung thư vào trung thất, vào phổi và xương.
6. Hình ảnh học
- Chụp đại tràng baryt.
Cần chụp đối quang kép, chủ yếu để chẩn đoán các túi thừa, polyp, ung thư đại tràng và một phần trong chẩn đoán lao hồi manh tràng, bệnh Crohn.
- Nội soi đại tràng.
Có thế thực hiện với soi trực tràng, đại tràng sigma và đại tràng toàn bộ giúp chẩn đoán và điều trị nhiều bệnh lý đại tràng như viêm, loét, túi thừa, polyp, bệnh Crohn và nhất là ung thư đại tràng..,
- Siêu âm đại tràng qua đường nội soi.
Được dùng để chẩn đoán các tổn thương ung thư nằm dưới niêm mạc, sự lan rộng của ung thư và di căn ra hạch kế cân.
- Xét nghiệm tế bào.
Chẩn đoán tế bào học ống tiêu hóa được thực hiện chủ yếu bằng nội soi sinh thiết, hoặc bằng chải rửa lòng ống tiêu hóa, nhất là dạ dày, sau đó quay ly tâm lấy cặn lắng, làm phết quệt và nhuộm bằng phương pháp Papanicolaou, hoặc bằng phương pháp quệt như trong thương tổn niêm mạc thực quản và đại tràng, hoặc bằng phương pháp dùng bàn chải để chải rụng tế bào; sau đó thu gom và nhuộm tế bào học, hoặc dựa vào tính chất bắt màu một cách chọn lọc của tế bào ung thư đối với một số chất chỉ thị màu. Ví dụ tế bào ung thư dạ dày rất có ái lực với tetracyclin và phát màu vàng với ánh sáng huỳnh quang. Cần lưu ỹ là, trong ung thư ống tiêu hóa cần thực hiện nhiều mẫu sinh thiết, ví dụ trong chẩn đoán ung thư dạ dày cần lấy 6 - 8 mẫu trên nhiều vòng và nhất là ở vòng bờ của tổn thương.
- Xét nghiệm vi trùng và ký sinh trùng.
Chủ yếu được lấy qua các bệnh phẩm thải ra từ ống tiêu hóa:
- Xét nghiệm dịch vị qua ống thông như trong trường hợp tìm BK.
Sinh thiết dạ dày đế nhuộm hoặc cấy tìm vi khuẩn Helicobacilterpyloné (HP).
Nhuộm mẫu sinh thiết dạ dày bằng phương pháp cố điển Giemsa, có thể phát hiện 80% HP có hình xoắn và có 4 tua hình sợi. Cấy HP cần môi trường đặc biệt vi yếm khí.
Sinh thiết ruột non để cấy vi khuẩn như trong bệnh Whipple.
Cấy phân hoặc soi tươi, nhuộm Giam để tìm vi khuẩn gây bệnh. Đây là xét nghiệm thường được thực hiện để tìm vi khuẩn gây bệnh như trong lỵ, thương hàn, tả, lao.
Cấy máu trong trường hợp có nhiễm khuẩn huyết như thương hàn, E. coli.
Phản ứng huyết thanh để phát hiện kháng nguyên và kháng thể của vi khuẩn, virus và ký sinh trùng.
Lĩnh vực xét nghiệm này ngày càng được phổ biến do có nhiều tiến bộ như miễn dịch huỳnh quang, ELISA, ống thông ADN, miễn dịch đơn dòng và đa dòng, và nhất là bằng phương pháp phản ứng chuỗi trùng hợp (Polymerisation chấn reaction - PCR).
Tìm ung thư dạ dày bằng kháng nguyên AGE, ít đặc hiệu, vì có thể tăng trong nhiều loại ung thư tiêu hóa khác, vì vậy chỉ được dùng để theo dõi sự tái phát của ung thư sau phẫu thuật. SGA (sulfoglycoprotein antigen) là nuột loại kháng nguyên glycoprotein do tế bào ung thư dạ dày tiết ra và tăng cao trong máu. Tuy nhiên, giá trị cũng tương tự ACE.
Tim ung thư đại tràng bằng kháng nguyên ACE cũng có giá trị tương tự như trong ung thư dạ dày. Tim ung thư tụy bằng định lượng CA19.9.