Các nhà nghiên cứu phát hiện ra dấu ấn sinh học mới ở ung thư đại trực tràng

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra dấu ấn sinh học mới ở ung thư đại trực tràng

Hiện nay nhóm nghiên cứu của Johns Hopkins đã xác định được một loại protein có liên quan đến sự tăng sinh tế bào và phát triển của các mạch máu mới có thể đóng vai trò là dấu hiệu, từ đó có thể giúp phát hiện sớm ung thư đại trực tràng.

Trong các nghiên cứu tại phòng thí nghiệm, các nhà điều tra thấy rằng những biểu hiện của protein, được gọi là beta-1,4-galactosyltransferase-V (beta-1,4-GalT-V), cho thấy đã tăng lên trong các tế bào khối u ung thư đại trực tràng so với các mô bình thường ở người. Bên cạnh đó, họ cũng quan sát thấy sự gia tăng hoạt động của protein này và trong nhóm phụ của nó là lactosylceramide, một chất béo có thể tạo ra superoxit, dẫn đến sự gia tăng của những tế bào mới và các mạch máu mà ung thư có thể sử dụng để có thể lây lan sang các cơ quan khác. Ngoài ra, ức chế protein và các nhóm phụ của nó cho thấy đã ngăn chặn được sự tăng sinh tế bào của ung thư đại trực tràng. Và những kết quả này đã được công bố trực tuyến trong số ra ngày 28 tháng 11 của tạp chí Biochemical and Biophysical Research Communications.

Dựa vào các phát hiện này đã chứng minh rằng việc bổ sung lactosylceramide vào danh sách các dấu ấn sinh học ngày càng tăng như NMT1, APC và TP53 trong xét nghiệm máu có thể phát hiện ung thư đại trực tràng hoặc các bệnh ung thư khác qua đó tăng cường khả năng phát hiện thành công sớm bệnh, Giáo sư nhi khoa Subroto B. Chatterjee, tác giả nghiên cứu chính của nghiên cứu và một chuyên gia về sinh học mạch máu tại Đại học Y khoa Johns Hopkins, cho biết.

Chatterjee nói: Việc chúng tôi phát hiện beta-1,4GalT-V được cung cấp rất nhiều và đặc biệt trên các tế bào nội mô trong niêm mạc mạch máu, trong mô ung thư. Và nếu bệnh nhân được điều trị bằng một loại thuốc nhắm vào beta-1,4GalT-V, khi đó nó sẽ tấn công các tế bào nội mô có protein này và hy vọng nó sẽ vô hiệu hóa hoạt động của chúng.

Hiện nay, ung thư đại trực tràng ảnh hưởng đến hơn 1,4 triệu người trên toàn thế giới, dẫn tới hơn 690.000 ca tử vong và đứng thứ ba về tỷ lệ trong các loại ung thư nguy hiểm hàng đầu, các tác giả cho biết. Vì thế việc sàng lọc nội soi thường không được bắt đầu cho đến khi bệnh nhân bước sang tuổi 50. Và một trong những xét nghiệm sàng lọc phổ biến nhất đã được sử dụng là xét nghiệm ung thư đại trực tràng dựa trên công nghệ DNA. Bên cạnh đó, kết quả từ các xét nghiệm phải được kết hợp với việc nội soi. Vì vậy, rất cần những dấu ấn sinh học đáng tin cậy để có thể giúp ích chẩn đoán ung thư đại trực tràng giai đoạn đầu, Chatterjee cho biết thêm.

Các nhà nghiên cứu Hopkins đánh dấu dấu ấn sinh học mới cho bệnh ung thư đại trực tràng

Các nhà nghiên cứu Hopkins đánh dấu dấu ấn sinh học mới cho bệnh ung thư đại trực tràng

Điều trị bằng thuốc D-PDMP làm giảm mức protein beta-1,4-GalT-V trong tế bào ung thư đại trực tràng ở người và tiêu diệt tế bào ung thư. Nguồn: Subroto B. Chatterjee

Vì thế đối với nghiên cứu này, Chatterjee cùng các đồng nghiệp đã tiến hành một số thử nghiệm mới trong phòng thí nghiệm để có thể nghiên cứu thêm. Đầu tiên, họ đã thu được 24 mẫu mô được lưu trữ tại Johns Hopkins từ các bệnh nhân ung thư đại trực tràng qua đó có thể kiểm tra phản ứng của các mẫu với kháng thể chống lại beta-1,4GalT-V, và họ đã phát hiện khả năng phản ứng mạnh. Ngoài ra, xét nghiệm ELISA (xét nghiệm miễn dịch hấp thụ liên kết enzyme) đã phát hiện và đo kháng thể trong 21 mẫu này cho thấy sự gia tăng khoảng 6,5 lần beta-1,4GalT-V trong các mô ung thư đại trực tràng so với các vị trí khác trong cùng một mẫu. Từ đó các nhà nghiên cứu đã ghi nhận sự gia tăng gấp 2,25 lần những hoạt động tổng hợp lactosylceramide trong các mẫu ung thư đại trực tràng so với các tế bào ruột kết bình thường. Và từ thử nghiệm bổ sung này cho thấy những biểu hiện tăng cao của một số gen trước đây có thể có liên quan đến ung thư đại trực tràng, trong các mẫu chẳng hạn như APC, TP53 và NMT1.

Và một nghiên cứu trước đó của nhóm Chatterjee được công bố vào năm 2013 trên tạp chí PLoS One đã chứng minh rằng việc điều trị hàng ngày bằng D-PDMP (D-threo-1-phenly-2-decanoylamino-3-morpholino-1-propanol), một chất ức chế được nhắm vào ung thư trong vòng bốn tuần cho thấy đã giảm một nửa kích thước khối u thận ở chuột, bằng cách ức chế hoạt động và khối lượng beta-1,4GalT-V. Vì vậy, từ đó các nhà nghiên cứu cũng đã thử nghiệm các tế bào ung thư đại trực tràng ở người được gọi là tế bào HCT-116 và điều trị bằng D-PDMP. Qua đó, họ phát hiện ra rằng trong vòng 24 đến 96 giờ, đối với các tế bào được điều trị bằng D-PDMP cho thấy thuyên giảm rõ rệt về beta-1,4GalT-V (so với các tế bào không được điều trị) và làm tăng việc loại bỏ của tế bào.

Chatterjee nói: Dựa vào những điều này đã cung cấp những bằng chứng rõ ràng nhất về beta-1,4GalT-V được xem là mục tiêu cho sự tăng sinh tế bào và chúng ta có thể ngăn chặn chu kỳ tăng sinh tế bào bằng cách sử dụng hợp chất D-PDMP này, ít nhất là trong thử nghiệm dựa trên tế bào. Qua đó cho thấy tiềm năng của việc sử dụng hợp chất này trong nhiều loại ung thư.

Các câu hỏi liên quan

Xin mời nói. Bạn muốn tìm gì ...