Các cách điều trị cao huyết áp
Cao huyết áp thường gây tai biến nghiêm trọng như tử vong và hôn mê do tai biến mạch máu não, di chứng liệt nửa người, suy tim, thiếu máu cơ tim, suy thận, phình bóc tách động mạch chủ... Do đó, mục đích chính của điều trị cao huyết áp là để phòng ngừa những biến chứng này.
Thông qua trị số huyết áp được hạ bằng thuốc hạ áp chúng ta có thể nhận biết huyết áp có thể kiểm soát tốt hay không. Tốt nhất nên đọc trị số huyết áp về <140/85mmHg; đối với người cao tuổi trị số huyết áp ban đầu có thể đưa về <160/90mmHg sau đó điều chỉnh tùy theo mức chịu đựng của bệnh nhân.
Điều trị cao huyết áp là điều trị suốt đời, do đó khi huyết áp đã trở về gần bình thường cũng không nên ngưng thuốc hạ áp mà phải điều trị tiếp tục vì huyết áp gia tăng trở lại khi ngưng thuốc. Cần tham vấn thường xuyên bác sĩ của bạn khi huyết áp quá cao hoặc quá thấp trong quá trình điều trị.
Có thể phối hợp thuốc hạ áp với các nhóm thuốc khác nhau để tăng hiệu quả và giảm tác dụng phụ (do sử dụng liều thấp). Cần lưu ý đến tác dụng phụ của thuốc khi điều trị, đặc biệt là tụt huyết áp ở người cao tuổi. Ở người cao tuổi, bác sĩ điều trị thường cho thuốc hạ áp với liễu khởi đầu chỉ bằng nửa liều người trẻ vì người cao tuổi dễ tụt huyết áp do thuốc hơn.
Ngoài việc điều trị cao huyết áp, cần lưu ý điều trị các yếu tố nguy cơ khác kèm theo như tiểu đường, tăng lipid máu...
Bác sĩ sẽ điều trị như thế nào?
Thông thường khi đo trị số huyết áp của bạn, nếu kết quả >140/90mmHg với nhiều lần đo trong nhiều ngày bạn có thể được xem là cao huyết áp. Nếu huyết áp của bạn không cao lắm tức khoảng 140/90-150/95mmHg với tình trạng chung là tốt và không mắc các bệnh làm xấu thêm tình trạng tim mạch, bạn có thể không dùng thuốc mà cần phải điều chỉnh cách sống. Nếu cao huyết áp hơn hoặc không cải thiện thì bác sĩ có thể xem xét điều trị thuốc ngay sau khi cân nhắc cẩn thận.
Điều chỉnh cách sống
Điều chỉnh chế độ ăn uống như giảm ăn mặn (<2,5g sodium chloride), giảm mỡ, giảm đường (nếu có tiểu đường); không uống quá nhiều bia rượu, chỉ uống với số lượng hạn chế để giúp có lợi cho sức khỏe của bạn (chừng 15ml rượu ethanol, 360ml bia/ngày).
Tập thể dục đều đặn là cách thức giảm cân, hoạt động thể lực aerobic hàng ngày 30-45 phút hầu hết các ngày trong tuần.
Ngưng hút thuốc lá.
Đời sống tỉnh thần thoải mái, nghỉ ngơi giải trí hợp lý.
Điều trị bằng thuốc hạ áp
Bác sĩ sẽ điều trị bệnh cao huyết áp bằng thuốc cho bạn khi trị số huyết áp khá cao.
Một số thuốc hạ áp thường dùng:
- Nhóm thuốc lợi tiểu:
- Furosemid (Lasix, Lasilix).
- Hydrochlorothiazid (Hypothiazid).
- Indapamid (Natrilix SR)
- Nhóm thuốc ức chế calcium:
- Nhóm Dihydropyridine: Nifedipine (Adalat, Procardia) chỉ nên sử dụng chế phẩm tác dụng kéo dài, không nên sử dụng các chế phẩm tác dụng ngắn đặc biệt là dạng ngậm dưới lưỡi vì không an toàn (gia tăng cơn đau thắt ngực hoặc nhồi máu cơ tim dẫn đến tử vong).
- Felodipine (Plendil), Amlodipine (Amlor Amdepin, Amlopress)
- Nhóm Không Dihydropyridine: Tildiem (Diltiazem), Verapamil (Isoptin)
- Nhóm thuốc ức chế men chuyển:
- Captopril (Lopril), Enalapril (Renitec), Lisinopril (Zestril), Peridopril (Coversy]).
- Nhóm thuốc ức chế beta giao cảm:
- Propranolol (Avlocardyl, Inderal), Atenolol (Tenormin), Metoprolol (Lopresor), Acebutolol (Sectral), Pindolol (Visken).
Việc lựa chọn thuốc hạ áp nào là phụ thuộc vào tình trạng huyết áp và tình trạng bệnh lý (bệnh tim, bệnh phổi, bệnh HA). Ví dụ: Người có bệnh phổi như hen suyễn hoặc nhịp tim chậm (< 60 lần/phút) thì không nên sử dụng thuốc ức chế beta. Nhưng thuốc ức chế beta có lợi hơn ở những bệnh nhân cao huyết áp kèm thiếu máu cơ tim mà nhịp tìm nhanh. Người bị suy tim thì thuốc ức chế men chuyển hóa có lợi hơn. Thuốc ức chế calcium Dihydropyridine thường được chỉ định rộng rãi vì ít tác dụng phụ, nhưng tốt nhất nên sử dụng dạng tác dụng kéo dài. Nhóm không Dihydropyridine (verapamil, diltiazem) có tác dụng tốt cho cao huyết áp kèm bệnh mạch vành, nhưng làm chậm dẫn truyền và suy giảm sức bóp của tim.