Bệnh Tự Gây Thương Tích
Tự gây thương tích là gì?
Tự gây thương tích là hành vi cố ý làm tổn hại đến cơ thể như cắt hoặc gây bỏng cho bản thân. Đây là cách để đối phó với nỗi đau tinh thần, sự giận dữ và thất vọng.
Mỗi lần tự gây thương tích người bệnh cảm thấy nhẹ nhõm và giải tỏa căng thẳng nhất thời, nhưng sau đó họ lại cảm giác tội lỗi, xấu hổ và đau đớn. Mặc dù các chấn thương thường không đe dọa tới tính mạng, nhưng có thể dẫn đến các hành động rất nghiêm trọng có thể dẫn tới tử vong.
Thông thường tình trạng này xảy ra một cách riêng tư, có kiểm soát, xuất hiện liên tục và thường để lại tổn thương trên da sau khi thực hiện. Ví dụ về tự gây thương tích bao gồm:
- Cắt (vết cắt hoặc vết trầy xước nghiêm trọng gây ra bởi một vật dụng sắc bén).
- Gãi.
- Đốt (với diêm, thuốc lá hoặc các vật nóng, nhọn như dao).
- Khắc chữ hoặc biểu tượng trên da.
- Đấm đá.
- Đâm vào da với các vật sắc nhọn.
- Kéo giật tóc.
- Đâm chọc hoặc can thiệp không ngừng vào các vết thương đang lành.
Trong đó cánh tay, chân và phía trước thân người là khu vực thường bị tổn thương nhất và họ có thể sử dụng nhiều cách để tự làm hại bản thân.
Đôi khi tình trạng khó chịu cũng có thể khiến người bệnh tự làm hại bản thân. Nhiều người tự gây thương tích chỉ một vài lần và sau đó dừng lại. Tuy nhiên, đối với những trường hợp khác, hành động này có thể trở nên lâu dài, lặp lại liên tục.
Mặc dù hiếm gặp, nhưng vẫn có trường hợp một số người trẻ có thể tự làm tổn thương ở những nơi công cộng hoặc theo nhóm để tạo sự gắn kết hoặc cho những người khác thấy rằng họ có kinh nghiệm chịu đau đớn.
Cho đến nay, kết quả thống kê cho thấy tự gây thương tích là một tình trạng đáng lo ngại và là một mối nguy hiểm thực sự ở những trường hợp dễ bị tổn thương. Trong đó, nữ giới chiếm 60% và khoảng 50% bắt đầu ở tuổi 14 và tiếp tục trở lại vào độ tuổi 20.
Nguyên nhân gây ra tự gây thương tích là gì?
Trong hầu hết các trường hợp, tự gây thương tích giúp họ đối phó với các vấn đề cảm xúc thái quá có thể gây ra do:
Các vấn đề xã hội như bị bắt nạt, gặp khó khăn tại nơi làm việc hay trường học, mối quan hệ khó khăn với bạn bè hoặc gia đình, hoặc về giới tính thật của bản thân hay đối phó với một cuộc hôn nhân sắp đặt.
Đã từng có những chấn thương về lạm dụng thể chất hoặc tình dục, “sự ra đi” của một thành viên gần gũi trong gia đình, bạn bè hoặc bị sẩy thai.
Nguyên nhân tâm lý, ví dụ như suy nghĩ quá nhiều hoặc nghe giọng nói thúc giục họ tự hại, mất kết nối (mất kết nối với bản thân và với môi trường xung quanh) hoặc rối loạn nhân cách ranh giới.
Từ những điều này dẫn đến sự dồn nén cảm xúc mãnh liệt như tức giận, cảm giác tội lỗi, tuyệt vọng và hận thù. Người bệnh thường không biết dựa vào ai để được giúp đỡ và tự gây hại trở thành một cách để giải phóng những cảm xúc bị dồn nén.
Hội chứng ngược đãi bản thân cũng có thể liên quan đến lo lắng và trầm cảm. Những tình trạng sức khỏe tinh thần này có thể ảnh hưởng đến bất kỳ ai ở độ tuổi nào.
Ngoài ra tình trạng này cũng có thể dẫn đến nguy cơ tử vong cao. Trong thực tế, tự gây thương tích có thể giúp họ đối phó với cảm xúc buồn khổ, vì vậy họ không cảm thấy cần phải tự sát.
Ngoài những nguyên nhân đã nêu ở trên thì có rất nhiều yếu tố nguy cơ gây ra tình trạng này như:
- Tuổi tác: Hầu hết những người tự gây thương tích đa phần là thanh thiếu niên và người trẻ tuổi. Họ thường bắt đầu tình trạng này ở tuổi thiếu niên, khi đó cảm xúc của họ vẫn chưa ổn định và thanh thiếu niên phải đối mặt với nhiều áp lực với bạn bè, sự cô đơn và xung đột với cha mẹ hoặc những nhân vật có sức ảnh hưởng.
- Có bạn là người tự gây hại:Những trường hợp có bạn cố ý gây hại cho bản thân có nhiều khả năng tự gây hại cho mình.
- Các vấn đề cuộc sống:Một số trường hợp đã từng bị bỏ rơi hoặc bị lạm dụng (tình dục, thể chất hoặc tinh thần) hoặc trải qua những sự kiện đau buồn khác, lớn lên - sống trong một gia đình không bình thường, cũng có nguy cơ cao mắc phải tình trạng này. Bên cạnh đó những trường hợp luôn đặt câu hỏi về danh tính cá nhân và xu hướng tình dục của mình, hay bị cô lập vẫn có khả năng xảy ra tình trạng này.
- Các vấn đề sức khỏe tinh thần: Một số rối loạn tâm thần khác như rối loạn nhân cách ranh giới, trầm cảm, rối loạn lo âu, rối loạn căng thẳng sau chấn thương và rối loạn ăn uống cũng có thể là tác nhân dẫn đến căn bệnh này.
- Uống rượu hoặc sử dụng ma túy quá mức: Những người làm hại bản thân thường hành động khi bị sự ảnh hưởng của rượu hoặc các chất có ma túy.
Những triệu chứng phổ biến của tự gây thương tích là gì?
Sau đây là các triệu chứng phổ biến của tự gây thương tích bao gồm:
- Nhiều sẹo.
- Các vết cắt mới, vết trầy xước, vết bầm tím hoặc các vết thương khác.
- Chà xát quá nhiều vào một chỗ để tạo ra bỏng.
- Giữ các vật sắc nhọn trên tay.
- Mặc áo dài tay hoặc quần dài ngay cả trong thời tiết nắng nóng.
- Gặp khó khăn trong các mối quan hệ cá nhân.
- Hay đặt các câu hỏi về danh tính cá nhân như: "Tôi là ai?" - "Tôi đang làm gì ở đây?".
- Hành vi và cảm xúc không ổn định, tính cách bốc đồng và không thể đoán trước được.
- Hay đề cập đến sự bất lực, tuyệt vọng hay vô dụng.
Những phương pháp điều trị tự gây thương tích là gì?
Thông thường để điều trị hành vi này bác sĩ thường dựa vào vấn đề cụ thể và tình trạng sức khỏe tinh thần có liên quan như trầm cảm. Nhưng bước đầu tiên người bệnh cần làm là chia sẻ với ai đó để nhận được sự giúp đỡ.
Để xử lý được tình trạng này cần có thời gian, nhiều nỗ lực và mong muốn hồi phục của bản thân. Người bệnh cần hợp tác với chuyên gia sức khỏe tâm thần để có thể kiểm soát tốt hành vi.
Nếu hành vi tự gây thương tích có liên quan đến một chứng rối loạn sức khỏe tinh thần như trầm cảm hoặc rối loạn nhân cách ranh giới, quá trình điều trị sẽ tập trung vào rối loạn đó cũng như các hành vi tự gây thương tích.
Tâm lý trị liệu
Các chuyên gia tâm lý sẽ nói chuyện hoặc tư vấn các liệu pháp tâm lý có thể giúp người bệnh:
- Xác định và quản lý các vấn đề tiềm ẩn kích hoạt hành vi tự gây thương tích.
- Học các kỹ năng quản lý nỗi đau tốt hơn.
- Tìm hiểu cách điều chỉnh cảm xúc.
- Tìm hiểu cách thúc đẩy hình ảnh bản thân.
- Phát triển các kỹ năng để cải thiện mối quan hệ và các kỹ năng xã hội.
- Phát triển các kỹ năng giải quyết vấn đề sức khỏe.
Ngoài ra, một số loại liệu pháp tâm lý cá nhân có thể đem lại nhiều hiệu quả như:
- Liệu pháp hành vi nhận thức giúp người bệnh xác định niềm tin và hành vi tiêu cực, không lành mạnh từ đó thay thế chúng bằng những suy nghĩ tích cực.
- Hành vi biện chứng trị liệu, một loại hình thức tâm lý trị liệu, hướng các kỹ năng về hành vi nhằm giúp người bệnh chịu được đau khổ, quản lý hoặc điều chỉnh các cảm xúc và cải thiện các mối quan hệ của họ với người khác.
- Trị liệu tâm động tập trung vào việc xác định những kinh nghiệm đã trải qua trong quá khứ, những ký ức ẩn giấu hoặc các vấn đề cá nhân gốc rễ của những khó khăn. Phương pháp thường được hướng dẫn thực hiện bởi một chuyên gia trị liệu.
- Phương pháp trị liệu dựa trên định tâm, giúp người bệnh sống trong hiện tại, cảm nhận những suy nghĩ và hành động của những người xung quanh để giảm sự lo âu, trầm cảm và cải thiện trạng thái hạnh phúc tổng quan.
- Ngoài các buổi trị liệu cá nhân, liệu pháp gia đình hoặc liệu pháp nhóm cũng được khuyến khích.
Các loại thuốc
Hiện tại không có loại thuốc điều trị dành riêng cho tình trạng này. Tuy nhiên, nếu người bệnh được chẩn đoán mắc phải những vấn đề về sức khỏe tinh thần như trầm cảm hoặc rối loạn lo âu, bác sĩ có thể kê toa thuốc chống trầm cảm hoặc các thuốc khác để điều trị các rối loạn tiềm ẩn liên quan đến tự gây thương tích.
Nhập viện tâm thần
Tuy nhiên, nếu người bệnh làm tổn thương bản thân liên tục, bác sĩ có thể khuyên họ nên nhập viện để được chăm sóc tâm thần. Nhập viện trong thời gian ngắn hạn có thể cung cấp một môi trường an toàn và điều trị chuyên sâu hơn cho đến khi người bệnh vượt qua giai đoạn khủng hoảng. Chương trình điều trị ngoại trú cũng có thể là một lựa chọn.