Bệnh Rò Động Tĩnh Mạch
Bệnh rò động tĩnh mạch là gì?
Rò động tĩnh mạch (tên tiếng anh là Arteriovenous Fistula) là sự nối kết bất thường giữa động mạch và tĩnh mạch. Thông thường, máu chảy từ động mạch đến mao mạch rồi đến tĩnh mạch. Các dưỡng chất và oxy trong máu từ mao mạch sẽ đến các mô trong cơ thể.
Khi có rò động tĩnh mạch, máu chảy trực tiếp từ động mạch vào tĩnh mạch, bỏ qua một số mao mạch. Khi điều này xảy ra, các mô mà mao mạch bị bỏ qua sẽ ít được cung cấp máu.
Các rò động tĩnh mạch thường xảy ra ở chân, nhưng có thể phát triển bất cứ nơi nào trong cơ thể.
Nguyên nhân gây ra bệnh rò động tĩnh mạch là gì?
Nguyên nhân thường thấy ở căn bệnh trên bao gồm:
- Thông tim:
Rò động tĩnh mạch có thể phát triển như là một biến chứng của thủ thuật thông tim. Trong quá trình thông tim, một ống dài, mỏng được gọi là một ống thông được đưa vào động mạch hoặc tĩnh mạch vùng bẹn, cổ hoặc cánh tay của cơ thể và luồn qua các mạch máu đến tim.
Nếu kim được sử dụng để luồn qua một động mạch và tĩnh mạch trong suốt thủ thuật, và động mạch bị nới rộng (dãn nở), có thể sẽ tạo ra một lỗ rò động tĩnh mạch. Điều này khá hiếm khi xảy ra.
- Thương tích thủng qua da:
Cũng có khả năng căn bệnh trên phát triển sau khi bị tổn thương, chẳng hạn như vết thương đâm hoặc đạn bắn. Điều này có thể xảy ra nếu vết thương tại vị trí cơ thể có tĩnh mạch và động mạch ở cạnh nhau.
- Rò động tĩnh mạch bẩm sinh:
Một số người sinh ra đã có rò động tĩnh mạch (bẩm sinh). Mặc dù lý do chính xác tại sao vẫn chưa rõ, trong các rò động tĩnh mạch động bẩm sinh, các động mạch và tĩnh mạch không phát triển bình thường khi còn trong bào thai.
- Tình trạng di truyền:
Các rò trong phổi (rò động tĩnh mạch phổi) có thể do bệnh di truyền (bệnh Osler-Weber-Rendu, còn được gọi là dãn mao mạch xuất huyết di truyền) gây ra phát triển các mạch máu bất thường trong toàn bộ cơ thể, đặc biệt là ở phổi.
- Mổ tạo lỗ rò (Thủ thuật tạo lỗ rò động tĩnh mạch):
Những người bị suy thận giai đoạn cuối cũng có thể được mổ tạo lỗ rò động tĩnh mạch để dễ dàng hơn trong việc lọc máu. Nếu kim lọc máu đâm vào tĩnh mạch quá nhiều lần, tĩnh mạch có thể bị sẹo và bị phá hủy.
- Tạo ra một rò động tĩnh mạch có thể mở rộng tĩnh mạch bằng cách kết nối nó với một động mạch gần đó, để dễ dàng luồn kim chạy thận và máu có thể chảy nhanh hơn. Lỗ rò động tĩnh mạch này thường được tạo ở cẳng tay.
Triệu chứng dễ nhận thấy ở bệnh rò động tĩnh mạch là gì?
Các Rò động tĩnh mạch nhỏ ở chân, cánh tay, phổi, thận hoặc não thường sẽ không có dấu hiệu hoặc triệu chứng. Tuy nhiên, khi các Rò động tĩnh mạch ở tình trạng nặng có thể gây ra các dấu hiệu và triệu chứng bao gồm:
- Tím tái, tĩnh mạch phình ra và có thể nhìn thấy trên da của người bệnh, cũng giống như bệnh giãn tĩnh mạch.
- Phù cánh tay hoặc chân.
- Giảm huyết áp.
- Mệt mỏi.
- Suy tim.
Ngoài ra, các Rò động tĩnh mạch trong phổi (rò động tĩnh mạch phổi) cũng là một tình trạng nghiêm trọng và có thể gây ra:
- Da xanh.
- Ngón tay dùi trống.
- Ho ra máu.
Cách điều trị bệnh rò động tĩnh mạch như thế nào?
Hiện nay, khi điều trị căn bệnh trên bác sĩ sẽ đề nghị bệnh nhân nên chỉ theo dõi chỗ bị Rò động tĩnh mạch, đặc biệt nếu tình trạng trên còn ở mức độ nhẹ và không gây ra bất kỳ vấn đề sức khoẻ nào khác. Một số rò động tĩnh mạch nhỏ tự đóng mà không cần điều trị.
Tuy nhiên, nếu lỗ Rò động tĩnh mạch ở giai đoạn nặng, khi đó bác sĩ có thể khuyến cáo bệnh nhân nên tiếp nhận các phương pháp điều trị sau đây:
- Xơ hóa ép dưới sự hướng dẫn của siêu âm:
Nếu người bệnh có rò động tĩnh mạch ở chân và dễ dàng nhìn thấy trên siêu âm, điều trị bằng xơ hóa ép dưới sự hướng dẫn của siêu âm có thể là một lựa chọn cho người bệnh. Trong phương pháp điều trị này, một đầu dò siêu âm được sử dụng để nén lỗ rò và ngăn máu chảy đến các mạch máu đã bị tổn thương.
- Gây tắc mạch:
Trong phương pháp này, một ống thông được đưa vào động mạch gần vị trí của rò. Các bác sĩ sử dụng tia X và các kỹ thuật hình ảnh khác để hướng dẫn ống thông tới vị trí rò của người bệnh, và một cuộn dây nhỏ hoặc stent được đặt tại vị trí của lỗ rò để định hướng lại dòng chảy của máu. Nhiều người làm phương pháp gây tắc mạch chỉ nằm trong bệnh viện nhiều nhất 24 giờ và có thể tiếp tục tất cả các hoạt động hàng ngày của họ trong khoảng một tuần.
- Phẫu thuật:
Rò động tĩnh mạch ở tình trạng nặng mà không thể điều trị bằng cách gây tắc mạch có thể cần phẫu thuật. Loại phẫu thuật cần phụ thuộc vào kích thước và vị trí của rò động tĩnh mạch.