Bệnh Rò Động Mạch Màng Cứng

Bệnh Rò Động Mạch Màng Cứng

Bệnh rò động mạch màng cứng là gì?

Rò động tĩnh mạch màng cứng (tên tiếng Anh là Dural arteriovenous fistulas - dAVF) là tập hợp các tình trạng dị thể mà có các luồng thông động tĩnh ở mạch máu màng cứng. Chúng có biểu hiện rất đa dạng có thể là xuất huyết hoặc tăng áp tĩnh mạch.

Là tập hợp các tình trạng dị thể mà có các luồng thông động tĩnh ở mạch máu màng cứng.

Là tập hợp các tình trạng dị thể mà có các luồng thông động tĩnh ở mạch máu màng cứng.

Nguyên nhân gây ra bệnh rò động mạch màng cứng là gì?

Rò động tĩnh mạch màng cứng (dAVF) thường xảy ra và trong hầu hết các trường hợp đều không rõ nguyên nhân. Ở những bệnh nhân có nguyên nhân tiền căn, hầu hết xảy ra do kết quả của quá trình hình thành vi mạch gây ra bởi huyết khối xoang màng cứng trước đây (điển hình là xoang ngang). Các nguyên nhân khác bao gồm chấn thương và phẫu thuật não trước đó. Có thể thấy một số bệnh nhân có rò không rõ nguyên nhân có huyết khối không tiền triệu, đặc biệt là tình trạng tiền huyết khối do di truyền, (ví dụ như thiếu hụt antithrombin, protein C và thiếu protein S) có liên quan đến sự phát triển rò động tĩnh mạch màng cứng.

Thường xảy ra và trong hầu hết các trường hợp đều không rõ nguyên nhân.

Thường xảy ra và trong hầu hết các trường hợp đều không rõ nguyên nhân.

Trên và cạnh lều: (động mạch cảnh ngoài)

- Động mạch giữa màng não.

- Động mạch thái dương nông (các nhánh transosseous).

Sàn sọ trước: (động mạch cảnh trong)

- Nhánh sàng của động mạch mắt.

Xoang hang: (động mạch cảnh trong và ngoài)

- Động mạch thân màng não hố yên và Động mạch thân bên dưới.

- Động mạch màng não phụ.

Sàn sọ sau: (động mạch cột sống và động mạch cảnh ngoài)

- Các động mạch cột sống (cả hai là các thành phần dural và cơ bắp).

- Chẩm và động mạch hầu lên.

Triệu chứng gây ra bệnh rò động mạch màng cứng là gì?

Cũng như bệnh Rò động tĩnh mạch nói chung, biểu hiện lâm sàng của bệnh rất đa dạng. Một số trường không có biểu hiện triệu chứng và không được phát hiện cho đến khi bệnh phát triển đến giai đoạn nặng.Sau đây là những triệu chứng của căn bệnh trên bao gồm:

Cũng như bệnh Rò động tĩnh mạch nói chung, biểu hiện lâm sàng của bệnh rất đa dạng.

Cũng như bệnh Rò động tĩnh mạch nói chung, biểu hiện lâm sàng của bệnh rất đa dạng.

- Ù tai: Tiếng o o hoặc tiếng chuông bất thường trong tai có thể là triệu chứng, đặc biệt khi rò động tĩnh mạch màng cứng xảy ra gần tai. Một vài bệnh nhân nghe thấy tiếng mạch đập gây ra khi dòng máu chảy qua chỗ rò.

- Các triệu chứng tại ổ mắt, vấn đề về thị lực: Khi rò động tĩnh mạch màng cứng gần mắt, bệnh nhân thường bị suy giảm thị lực, đỏ, sưng mắt, và xoang sung huyết.

- Đau đầu: Là triệu chứng thường gặp nhất với tất cả các loại Rò động tĩnh mạch màng cứng.

- Triệu chứng như đột quỵ: Tất cả các loại rò động tĩnh mạch có thể gây triệu chứng như đột quỵ và cơn động kinh nếu mạch máu bị vỡ. Xuất huyết trong não là tác dụng phụ nghiêm trọng nhất có thể gây ra dị tật vĩnh viễn hoặc tử vong.

- Liệt dây thần kinh sọ.

- Triệu chứng tăng áp tĩnh mạch.

- Tăng áp lực nội sọ.

- Thiếu hụt thần kinh cục bộ.

Cách điều trị bệnh rò động mạch màng cứng như thế nào?

Hiện nay, để điều trị căn bệnh trên phụ thuộc vào các mạch máu có liên quan, loại rò, độ tuổi và bệnh đồng mắc của bệnh nhân, cũng như là các biểu hiện trực tiếp của triệu chứng do rò. Sau đây các phương phấp điều trị căn bệnh trên bao gồm: 

Kỹ thuật nội mạch, là thủ thuật xâm lấn tối thiểu được thực hiện qua các mạch máu.

Kỹ thuật nội mạch, là thủ thuật xâm lấn tối thiểu được thực hiện qua các mạch máu.

- Điều trị bảo tồn

(đặc biệt Borden loại I và Cognard loại I và IIa).

- Điều trị cao cấp (Borden loại II và III, Cognard loại IIb-V) có tỷ lệ tử vong mỗi năm ~10% và nguy cơ xuất huyết nội sọ ~8% mỗi năm cho nên có thể cân nhắc điều trị.

- Nội mạch: Kỹ thuật nội mạch, là thủ thuật xâm lấn tối thiểu được thực hiện qua các mạch máu, đã được phát triển để điều trị rò động tĩnh mạch màng cứng một cách an toàn.

Một phương pháp tiếp cận được gọi là phương pháp gây tắc mạch, làm giảm lưu lượng máu đến chỗ rò bằng cách làm nghẽn các mạch máu xung quanh đó. Trong phương pháp này, lỗ rò được làm đầy bằng các cuộn dây, keo hoặc khối cầu được thiết kế đặc biệt để chặn mạch máu.

- Xạ phẫu đích: Một số rò không thể hoàn toàn bị tắc nghẽn với thủ thuật gây tắc mạch và có thể phải phẫu thuật để phân tách hoặc đóng chúng. Trong một số trường hợp, các bác sĩ có thể cố gắng để đóng rò với những gì được gọi là xạ phẫu đích hoặc dao Gamma.

Các câu hỏi liên quan

Xin mời nói. Bạn muốn tìm gì ...