Bệnh nhân được chẩn đoán u tuyến không được nội soi trong thời gian khuyến cáo
Bệnh nhân được chẩn đoán mắc u tuyến, một tiền chất của ung thư đại trực tràng, và thường không nhận được nội soi đại tràng tiếp theo trong khung thời gian được đề nghị.
Nghiên cứu này được công bố trong Cancer Epidemiology, Biomarkers & Prevention, một tạp chí của Hiệp hội Mỹ nghiên cứu ung thư, bởi Tiến sĩ Jessica Chubak, nhà nghiên cứu khoa học cao cấp tại Viện Nghiên cứu Sức khỏe Kaiser Permanente Washington.
U tuyến là một loại polyp có khả năng trở thành ung thư. Qua đó cho thấy nguy cơ ung thư của một người sẽ cao hơn nếu họ được chẩn đoán mắc một số loại u tuyến, hoặc nếu họ có nhiều u tuyến lớn, Chubak giải thích.
Khi bệnh nhân được phát hiện có một số nguy cơ cao hơn, khi đó những tư vấn viên sẽ khuyên họ nên quay trở lại làm phương pháp nội soi khác sau ba năm. Và đây được gọi là nội soi đại tràng giám sát, qua đó nó cải thiện cơ hội của mọi người về phòng ngừa ung thư đại trực tràng hoặc có thể phát hiện nó ở giai đoạn đầu, Chubak nói.
Trong nghiên cứu này, Chubak cùng các đồng nghiệp đã phân tích các mẫu và những yếu tố liên quan đến việc tiếp nhận nội soi đại tràng trong vòng khoảng ba năm về một chẩn đoán u tuyến hoặc có nguy cơ cao bị u tuyến. Vì thế nghiên cứu này là một phần của Viện Ung thư Quốc gia (NCI) dựa trên dân số và tối ưu hóa sàng lọc thông qua tập đoàn Regimens (PROSPR), một chương trình nhằm đánh giá quá trình sàng lọc ung thư.
Các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu 6909 bệnh nhân độ tuổi từ 50 đến 89, đây là những người đã nhận được nội soi đại tràng mà khi đó một hoặc nhiều u tuyến nguy cơ cao đã được phát hiện. Ngoài ra những bệnh nhân đã được điều trị tại một trong ba hệ thống Kaiser Permanente, hoặc Hệ thống Y tế & Bệnh viện Parkland, đây là một mạng lưới điều trị an toàn cho bệnh nhân bất kể tình trạng bảo hiểm hoặc về khả năng thanh toán của họ. Qua đó các nhà nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu hồ sơ y tế điện tử để xác định xem những bệnh nhân đã được chẩn đoán có nguy cơ cao trong lần nội soi ruột ban đầu, và để xác định xem liệu họ đã nhận được nội soi đại tràng tiếp theo trong vòng ba năm tới hay chưa.
Ngoài ra, nghiên cứu cho thấy trong 3 hệ thống Kaiser Permanente, đã có 47% và 59,5% người tham gia vào nghiên cứu đã nhận được một soi đại tràng tiếp theo trong vòng từ 6 tháng 3,5 năm sau khi được nội soi ban đầu với những phát hiện có nguy cơ cao. Vì thế hệ thống mạng lưới an toàn Parkland, và tỷ lệ cho thấy 18,3% trường hợp đã nhận được nội soi tiếp theo trong khung thời gian đề nghị.
Chubak cho biết tỷ lệ thấp ở Parkland rất có thể là do sự khác biệt về nguồn lực và quần thể bệnh nhân. Ngoài ra sự khác biệt giữa các hệ thống Kaiser Permanente có thể phản ánh sự khác biệt về tổ chức, chẳng hạn như thủ tục tiếp cận bệnh nhân, năng lực trung tâm y tế, hoặc dễ dàng lên lịch trình. Bà nói thêm rằng các thách thức của việc cung cấp nội soi giám sát kịp thời là rất phổ biến; vì thế các nghiên cứu trong các hệ thống và những thiết lập khác cũng đã được phát hiện ra nhiều bệnh nhân không nhận được nội soi trong khung thời gian khuyến cáo.
Chubak lưu ý rằng, tại thời điểm nghiên cứu, Kaiser Permanente đã không có một chương trình giám sát tập trung, và từ đó một hệ thống toàn diện để cải thiện giám sát đã thực hiện. Ngoài ra, hệ thống Parkland đã triển khai một hệ thống để đảm bảo rằng những bệnh nhân mắc các loại u tuyến này nhận được các khuyến nghị cần đi khám nội soi theo dõi trong vòng ba năm. Vì thế Chubak và các nhà nghiên cứu của cô hy vọng nghiên cứu này sẽ có những thay đổi trong tương lai.
Không những thế các nhà nghiên cứu đã xác định một số yếu tố có liên quan đến bệnh nhân trong việc tiếp nhận kịp thời một nội soi đại tràng tiếp theo. Còn đối với những bệnh nhân đã được chẩn đoán có nhiều u tuyến hoặc u tuyến có một số mô học nguy cơ cao thì nhiều khả năng sẽ nhận được nội soi đại tràng tiếp theo trong khung thời gian khuyến cáo. Tuổi tác cũng là một yếu tố khác cần được lưu ý và đối với những người tham gia nghiên cứu ở độ tuổi từ 60 đến 74 là nhiều khả năng hơn so với nhóm tuổi từ 50 đến 54 về những tài liệu tham khảo trong việc được nội soi đại tràng kịp thời, còn đối với những người ở độ tuổi từ 80 đến 89 thì có ít khả năng hơn.
Chubak cho biết nghiên cứu này được xem là những hỗ trợ sự cần thiết cho các chuyên gia chăm sóc sức khỏe qua đó đảm bảo bệnh nhân có thể nhận thức được tất cả các hướng dẫn sàng lọc được đề nghị, và qua đó cung cấp những hỗ trợ khi có thể.
Bà nói: Chúng tôi khuyến khích bệnh nhân và nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe nói về cách thức mà từ thời điểm thử nghiệm ung thư đại trực tràng, qua đó chúng tôi khuyến khích các hệ thống chăm sóc sức khỏe nên tìm cách hỗ trợ bệnh nhân - nhà cung cấp về những nguyên tắc. Và trong tương lai, điều quan trọng ở đây là phải hiểu được những nhắc nhở nào hoạt động tốt nhất cho các quần thể bệnh nhân khác nhau và trong những môi trường chăm sóc sức khỏe khác nhau.
Cuối cùng Chubak cho biết: Một hạn chế trong nghiên cứu này là không phải tất cả các bệnh nhân có kết quả nguy cơ cao đều được đưa vào, bởi vì một số dữ liệu, chẳng hạn như kích thước u tuyến, không có sẵn ở tất cả các điểm nghiên cứu.