Bệnh Mụn Cóc Ở Bàn Chân
Bệnh mụn cóc ở bàn chân là gì?
Mụn cóc ở bàn chân thường xuất hiện ở những khu vực chịu nhiều áp lực cơ thể như gót chân hoặc lòng bàn chân. Thông thường những vị trí này có thể là nguyên nhân khiến mụn cóc phát triển ở bên dưới lớp da dày và cứng (mô sẹo). Thực tế, căn bệnh trên không phải là vấn đề sức khỏe nghiêm trọng nhưng bệnh có thể gây ra nhiều khó chịu và đau đớn.
Mụn cóc ở bàn chân thường xuất hiện ở những khu vực chịu nhiều áp lực cơ thể như gót chân hoặc lòng bàn chân.
Nguyên nhân gây ra bệnh mụn cóc ở bàn chân là gì?
Thông thường căn bệnh được gây ra bởi các bệnh nhiễm trùng u nhú ở người (HPV).
Khi đó, virus xâm nhập vào cơ thể qua các vết cắt nhỏ, vế rách hoặc những điểm yếu khác trên da trong môi trường ấm áp, ẩm ướt. Ngoài ra cơ thể cũng có thể nhiễm các loại virus mụn cóc thông qua tiếp xúc trực tiếp với người bị bệnh. Khi vào bên trong da, các virus có thể phát triển và lây lan, kích thích nhanh chóng các tế bào trên bề mặt da.
Thực tế khó có thể biết khi nào hoặc nơi nào mà người bệnh đã từng tiếp xúc với các vi sinh vật. Tuy nhiên, thời kỳ ủ bệnh HPV có thể lên đến ba tháng và một mụn cóc có thể ẩn đi trong nhiều năm.
Hiện nay, có hơn 60 chủng loại HPV khác nhau. Mụn cóc có thể xuất hiện bất cứ nơi nào trên da, trong đó có một tên khác nhau như mụn cóc thông thường, mụn cóc phẳng, mụn cóc filiform, mụn cóc periungual nhưng chỉ có những người xuất hiện trên lòng bàn chân được gọi là mụn cóc ở bàn chân.
Bệnh được gây ra bởi các bệnh nhiễm trùng u nhú ở người (HPV).
Sau đây là các yếu tố nguy cơ có khả năng làm tăng khả năng mắc phải căn bệnh trên bao gồm:
- Trẻ em và trẻ vị thành niên.
- Suy giảm hệ thống miễn dịch.
- Người đã mắc mụn cóc bàn chân.
Việc đi lại bằng chân trần khi chân có các vết thương hở miệng ở những môi trường có nguy cơ mắc cao, như nhà tắm công cộng.
Triệu chứng thường thấy ở bệnh mụn cóc ở bàn chân là gì?
Sau đây là các triệu chứng phổ biến thường thấy ở bệnh mụn cóc ở bàn chân bao gồm:
- Mụn nhỏ, rộp và sưng lên ở dưới lòng bàn chân.
- Có các mảng mô sẹo trên da, nơi mà mụn cóc đã phát triển vào phía trong.
- Đầu đen hay còn gọi là mụn cơm, thực tế là các mạch máu nhỏ đã bị vón cục lại.
- Tổn thương làm gián đoạn các đường vân và các sống trong da bàn chân.
Có các mảng mô sẹo trên da, nơi mà mụn cóc đã phát triển vào phía trong.
Khi nào cần gặp bác sĩ?
Người bệnh nên tới gặp bác sĩ khi có các dấu hiệu sau:
- Các tổn thương gây đau đớn hoặc có sự thay đổi về hình dạng, màu sắc.
- Hệ thống miễn dịch bị suy yếu do thuốc ức chế miễn dịch, HIV/AIDS, tiểu đường hoặc rối loạn miễn dịch khác.
- Người bệnh có mụn ở trên mặt hoặc ở các bộ phận nhạy tế nhị khác trên cơ thể (ví dụ như bộ phận sinh dục, miệng, mũi). Xuất hiện triệu chứng đau hoặc đau nhói khi đứng lên hoặc đi lại.
Điều trị bệnh bệnh mụn cóc ở bàn chân
Hầu hết hiện nay các trường hợp bị mụn cóc ở bàn chân thường tự mất đi mà không cần điều trị trong một hoặc hai năm. Tuy nhiên, nếu các phương pháp tự điều trị không hiệu quả, người bệnh nên tham khảo với bác sĩ về việc thử những phương pháp điều trị khác, chẳng hạn như:
Axit salicylic:
Salicylic axit hoạt động bằng cách loại bỏ những mụn cơm từng chút. Axit trên cũng có thể kích thích khả năng hệ thống miễn dịch của cơ thể để chống lại mụn cóc.
Phương pháp áp lạnh:
Cách xử lý này sẽ sử dụng nitơ lỏng nên được thực hiện tại bệnh viện. Một số nghiên cứu cho thấy điều trị này có hiệu quả hơn khi kết hợp với các phương pháp điều trị axit salicylic.
Tiểu phẫu:
Bác sĩ cắt bỏ hoặc phá hủy các mụn cóc bằng cách sử dụng kim điện.
Điều trị bằng laser:
Dùng phương pháp đốt laser để đóng các mạch máu nhỏ. Các mô bị nhiễm bệnh cuối cùng bị chết và mụn cóc rụng đi.
Vắc xin phòng HPV:
Vắc-xin phòng (HPV) đã được sử dụng thành công để điều trị mụn cóc.
Tiểu phẫu: bác sĩ cắt bỏ hoặc phá hủy các mụn cóc bằng cách sử dụng kim điện.
Trong trường hợp người bệnh bị tiểu đường, bệnh nhân nên tham khảo ý kiến bác sĩ khi có dấu hiệu đầu tiên hoặc bất cứ vấn đề gì với da chân hoặc ngón chân, bất kể mức độ của vấn đề đó như thế nào. Các biện pháp phòng ngừa và các bước sau đây có thể được khuyến cáo bởi bác sĩ, nhưng không nên được thực hiện mà không có sự giám sát và đồng ý của bác sĩ.