Bệnh Lao Hạt
Lao hạt là bệnh gì?
Lao hạt là một hình thức vi khuẩn lao lây lan trên diện rộng vào cơ thể con người và gây ra các tổn thương có kích thước nhỏ (1-5 mm). Thuật ngữ lao hạt (còn gọi là lao hạt kê) bắt nguồn từ một hình thù đặc biệt trên hình chụp X-quang ngực, hình thù này gồm nhiều đốm nhỏ tương tự như hạt kê phân bố trên khắp phế trường. Không những thế, Lao hạt có thể lây nhiễm đến bất kỳ các cơ quan nào, bao gồm phổi, gan và lá lách.
Nguyên nhân gây ra bệnh lao hạt là gì?
Lao hạt là một hình thức của bệnh lao, đây là kết quả của trực khuẩn lao di chuyển đến các cơ quan ngoài phổi, như gan, lá lách và thận. Khi đó, các vi khuẩn lây lan từ hệ thống mạch phổi đến hệ thống bạch huyết và cuối cùng là máu. Tuy nhiên, cơ chế xảy ra điều này vẫn chưa được tìm hiểu rõ.
Hiện tại, các nhà khoa học có giả thiết cho rằng nhiễm lao là kết quả từ việc xói mòn của lớp biểu mô tế bào phế nang và tình trạng nhiễm trùng lây lan vào tĩnh mạch phổi. Khi đó các vi khuẩn xâm nhập vào phía bên trái của tim và đi vào hệ tuần hoàn, chúng có thể sinh sôi và lây nhiễm sang các cơ quan ngoài phổi. Một khi bị nhiễm, các phản ứng miễn dịch trung gian tế bào được kích hoạt, sau đó các đại thực bào sẽ bao quanh các vùng bị nhiễm, tạo thành các u hạt, từ đó gây ra bệnh lao hạt.
Ngoài ra, vi khuẩn có thể tấn công các tế bào lót các phế nang và xâm nhập vào các hạch bạch huyết. Tiếp theo đó, các vi khuẩn sẽ xâm nhập vào tĩnh mạch toàn thân và cuối cùng là phía bên phải của tim. Từ phía bên phải của tim, vi khuẩn sẽ sinh sôi và lan vào phổi, gây ra bệnh lao hạt.
Sau đây là các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc phải bệnh lao hạt, chẳng hạn như:
- Tiếp xúc trực tiếp với người bị mắc bệnh lao hạt.
- Sống trong điều kiện thiếu vệ sinh.
- Có chế độ ăn uống không lành mạnh.
- Vô gia cư và HIV/AIDS.
Những triệu chứng của bệnh lao hạt là gì?
Cho đến nay, bệnh nhân bị lao hạt thường có các dấu hiệu như ho và hạch to.
Bên cạnh đó, bệnh cũng có thể xảy ra các triệu chứng sau:
- Gan to (40%).
- Lá lách mở rộng (15%).
- Viêm tụy (<5%).
- Rối loạn chức năng tuyến thượng thận (tuyến thượng thận không sản xuất đủ hormone steroid để điều hòa chức năng nội tạng).
- Tràn khí màng phổi.
- Tiêu chảy.
Các triệu chứng khác bao gồm sốt, tăng canxi máu, vết sần chorodial và tổn thương ở da:
- Sốt: Nhiều bệnh nhân có cơn sốt kéo dài vài tuần cộng với việc nhiệt độ tăng cao đột ngột vào buổi sáng.
- Tăng canxi máu: Trường hợp này chiếm từ 16 - 51% trường hợp bệnh lao. Bác sĩ cho rằng tăng canxi máu xảy ra như là một phản ứng với tăng cường hoạt động của đại thực bào trong cơ thể. Ví dụ: 1,25 calcitriol cải thiện khả năng tiêu diệt vi khuẩn của đại thực bào. Tuy nhiên, mức độ calcitriol cao hơn sẽ dẫn đến nồng độ canxi gia tăng, do đó trong một số trường hợp sẽ bị tăng canxi máu.
- Vết sần màng mạch, tổn thương về thần kinh thị giác: Đây thường là dấu hiệu của trẻ em mắc bệnh lao hạt. Khi đó các tổn thương có thể xảy ra ở một hoặc cả hai mắt và một số tổn thương khác nhau giữa các bệnh nhân. Vết sần màng mạch thường là triệu chứng chính của bệnh lao, vì sự xuất hiện của các vết sần này là một dấu hiệu chẩn đoán bệnh.
- Viêm màng não: Số lượng người trưởng thành bị bệnh lao hạt mắc bệnh viêm màng não bệnh lao chiếm từ 10 - 30%, trẻ em chiếm từ 20 - 40%. Điều này xuất hiện sau khi khuẩn lao hạt lan đến não bộ, các không gian màng não và dẫn đến bệnh lao màng não.
Những kỹ thuật y tế dùng để chẩn đoán bệnh lao hạt là gì?
Những xét nghiệm thường thấy bao gồm:
- Chụp X-quang ngực.
- Kiểm tra đờm.
- Nội soi phế quản.
- Sinh thiết mở phổi.
- Chụp CT/MRI.
- Cấy máu.
- Soi đáy mắt.
- Điện tim.
- Xét nghiệm máu.
Những phương pháp điều trị bệnh lao hạt là gì?
Hiện tại, WHO (Tổ chức Y tế Thế giới - viết tắt WHO hoặc OMS) khuyến cáo bệnh nhân cần điều trị bằng thuốc isoniazid và rifampicin trong 6 tháng, kèm với ethambutol và pyrazinamid trong 2 tháng đầu tiên. Tuy nhiên, nếu có dấu hiệu cho thấy viêm màng não xuất hiện thì điều trị sẽ được kéo dài đến 12 tháng. Trong khi đó, tại Hoa Kỳ, thời gian đề nghị điều trị là 9 tháng. Bệnh nhân sau khi dùng thuốc pyrazinamid, rifampin và isoniazid có thể gặp phải tác dụng phụ như viêm gan hoặc các dấu hiệu khác như kháng thuốc, tái phát lại, suy hô hấp cấp và hội chứng suy hô hấp người lớn.