Bệnh Gout
Gout là gì?
Bạn bị đánh thức đột ngột vào nửa đêm, nguyên nhân là ngón chân cái như bị lửa đốt. Nó nóng rát, sưng phồng, đau đớn và cảm giác nặng nề không thể chịu đựng nổi. Trường hợp này có lẽ bạn đang bị cơn Gout cấp tính (viêm khớp do Gout) - một dạng viêm khớp đặc trưng bởi các cơn đau nặng nề, đột ngột, khớp sưng đỏ.
Gout là một bệnh lý có lẽ được biết đến lâu đời nhất của loài người - đã hơn 2000 năm nay. Ngày xưa nó được xem như là “bệnh của vua chúa” vì thường xuất hiện ở những người giàu sang với những đồ ăn thức uống của người giàu. Ngày nay người ta biết rõ rằng đây là một rối loạn phức tạp ảnh hưởng lên mọi người không chỉ riêng ở người giàu. Tại Việt Nam, hiện có đến hàng triệu người đang phải khổ sở vì bệnh này.
Nam giới thường mắc bệnh này nhiều hơn phụ nữ. Bệnh Gout ở nữ thường xảy ra sau mãn kinh. Đây là một bệnh chữa trị được và có nhiều cách để phòng ngừa tái phát. Dấu hiệu và triệu chứng đau do Gout hầu hết là cấp tính, xảy ra một cách đột ngột, thường vào ban đêm, không có triệu chứng báo trước, gồm:
Đau khớp dữ dội:
Gout thường ảnh hưởng những khớp lớn trên ngón chân cái, nhưng cũng có thể ở khớp bàn chân, mắt cá chân, gối, bàn tay, cổ tay,.. Cơn đau điển hình có thể kéo dài 5-10 ngày rồi ngưng. Khó chịu sẽ giảm dần dần sau 1-2 tuần, các khớp có vẻ không có gì bất thường.
Viêm đỏ:
Các khớp bị sưng đỏ và đau.
Nguyên nhân
Bệnh này do nồng độ acid uric trong máu tăng quá cao. Acid uric là một sản phẩm phụ tạo ra do sự thoái giáng của purine. Chất này có thể tìm thấy trong tự nhiên từ một số loại thực phẩm - tạng động vật như gan, óc, thận, lách và cá như cá trồng (thuộc họ cá trích), cá trích, cá thu. Purine cũng có trong tất cả các loại thịt, cá và gia cầm.
Thông thường thì acid uric bị phân hủy trong máu và được thải theo nước tiểu ra ngoài qua thận. Nhưng đôi khi cơ thể bạn tạo ra quá nhiều acid uric hoặc thải acid này ra nước tiểu quá ít. Hậu quả là acid uric trong máu tăng lên, tích lũy dần dần và lắng đọng thành những tinh thể sắc nhọn hình kim tại các khớp hoặc các bao quanh khớp gây ra triệu chứng đau đớn, viêm sưng khớp.
Một số tình trạng khác, gọi là giả Gout, cũng có tình trạng lắng đọng tinh thể ở khớp nhưng không phải tinh thể acid uric mà là tinh thể calcium pyrophosphate dihydrate. Bệnh giả Gout cũng có thể gây đau khớp ngón chân cái tương tự Gout nhưng thường thì ở các khớp lớn hơn như gối, cổ tay hoặc mắt cá chân.
Yếu tố nguy cơ
Những yếu tố hay hoàn cảnh sau có thể làm tăng acid uric trong máu cũng như tăng nguy cơ bệnh Gout:
Lối sống:
Thông thường nhất là uống nhiều rượu (alcohol), đặc biệt là bia. Uống nhiều nghĩa là hơn hai cốc ở nam và một cốc ở nữ mỗi ngày. Nếu thể trọng tăng cao hơn cân nặng lý tưởng 15kg cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh Gout.
Một số bệnh lý và thuốc:
Một số bệnh lý và thuốc điều trị cũng có thể làm bạn tăng nguy cơ bị Gout. Các bệnh như tăng huyết áp, đái tháo đường, mỡ trong máu cao, hẹp lòng động mạch (do xơ vữa động mạch), phẫu thuật, các bệnh lý và tổn thương nặng, đột ngột, ít vận động,.. Một số thuốc như lợi tiểu thiazide (một loại thuốc điều trị tăng huyết áp bằng cách làm giảm lượng muối và nước trong cơ thể), aspirin liều thấp và cyclosporine (một loại thuốc sử dụng để chống thải ghép cho những người được ghép mô) cũng làm tăng acid uric máu. Hóa trị liệu trong một số bệnh như ung thư làm hủy diệt tế bào và phóng thích một lượng lớn purine vào máu.
Gen di truyền:
Một phần tư số bệnh nhân bị Gout có tiền sử gia đình bệnh này.
Tuổi và giới:
Nam giới có tần suất bệnh cao hơn nữ. Phụ nữ có nồng độ acid uric máu thường thấp hơn nam giới, nhưng đến tuổi sau mãn kinh lại tăng lên. Nam thường bị Gout trong khoảng 30-50 tuổi, còn nữ từ 50-70 tuổi.
Biến chứng
Một số bệnh nhân bị Gout tiến triển đến viêm khớp mãn tính, thường có sự thay đổi màu do lắng đọng các tinh thể dưới da gọi là sạn urate (tophi). Một số ít có thể bị sỏi thận.
Điều trị
Thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDs) dùng để giảm đau, kháng viêm trong các cơn Gout cấp tính, gồm các thuốc như Indomethacin (Indocin) hoặc các thuốc bán tự do ở nhà thuốc như Ibuprofen (Advil, Motrin,..). Bác sĩ cũng có thể kê toa các thuốc kháng viêm steroid như prednisone.
Tuy nhiên hãy cẩn thận với các thuốc này và tham vấn ý kiến bác sĩ của bạn cụ thể cách dùng và thời gian dùng (thường chỉ nên dùng từ 3-10 ngày), vì nếu điều trị kéo dài chúng có thể gây các biến chứng như viêm loét và xuất huyết dạ dày, tá tràng.
Trường hợp bạn bị cơn Gout cấp, bác sĩ có thể cho bạn dùng colchicine hoặc chích cortisone thẳng vào khớp, đồng thời dùng các biện pháp điều trị ngăn ngừa nhằm hạ lượng acid uric trong máu của bạn.
Phòng ngừa
Hiện chưa có cách nào chắc chắn để ngăn ngừa sự khởi phát và tái phát của các cơn Gout. Bác sĩ có thể cho dùng một số thuốc giúp ngăn ngừa hoặc làm giảm thiểu độ nặng của các cơn tái phát sau này. Các thuốc này gồm có Allopurinol (Zyloprim, Aloprim) và Probenecid (Benemid), dùng hàng ngày giúp giảm nồng độ và tốc độ sản xuất acid uric. Việc duy trì nồng độ acid uric ổn định ở giới hạn bình thường là cách ngăn ngừa bệnh Gout lâu dài và hiệu quả nhất.
Tự chăm sóc bản thân
Thay đổi lối sống không thể điều trị bệnh Gout, nhưng rất hữu ích để hỗ trợ điều trị. Các biện pháp sau giúp giảm bệnh:
- Giảm béo: Duy trì cân nặng hợp lý bằng cách giảm cân từ từ giúp giảm nồng độ acid uric máu, đồng thời giảm bớt sự chịu đựng sức nặng của các khớp. Tuy nhiên không nên nhịn đói để giảm cân nhanh vì như vậy lại càng làm tăng acid uric máu.
- Tránh ăn quá nhiều đạm động vật: Đây là nguồn chứa nhiều purine. Các thực phẩm chứa nhiều purine như tạng động vật (gan, thận, óc, lách), cá trồng, cá trích, cá thu,.. Các loại thịt, cá, gia cầm chứa ít purine hơn.
- Giới hạn hoặc tránh rượu: Uống quá nhiều rượu làm giảm bài tiết acid uric. Giới hạn dưới hai cốc mỗi ngày nếu là nam, môt cốc nếu là nữ. Người bị Gout, tốt nhất nên tránh hoàn toàn rượu bia.
- Ăn uống nhiễu nước, chất lỏng: Dịch làm pha loãng nồng độ acid uric trong máu.
Bác sĩ Phạm Xuân Hậu